Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011

Giải độc Hay là Chết: Những Cách Trị liệu Tự nhiên để Đối phó với Bụi Phóng xạ từ Vụ Tan chảy Hạt nhân Fukushima

Tác giả: Gabriel Segura, MD. Bác sĩ phẫu thuật tim mạch.
Nguồn: Detoxify or Die: Natural Radiation Protection Therapies for Coping With the Fallout of the Fukushima Nuclear Meltdown

Chủ đề sức khỏe:
Sự ngần ngại trong việc công nhận những vấn đề quá rõ ràng và sự chậm trễ trong việc ngăn chặn phơi nhiễm và giảm nhẹ các tác động xấu là đặc tính thường trực của những kẻ ủng hộ năng lượng hạt nhân, những kẻ quan tâm đến việc giữ nguyên những gì hiện đang tồn tại hơn là giúp đỡ hàng triệu người vô tội đang phải chịu hậu quả mặc dù họ không có lỗi gì.
- Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. và Yablokov, Chernobyl: Consequences of the Catastrophe for People and the Environment (Chernobyl: Hậu quả của Thảm họa đối với Con người và Môi trường)
Khói bay lên từ lò phản ứng số 3 của nhà máy điện hạt nhân Fukushima
Chúng ta nhận được những báo cáo trái ngược từ các nguồn đài báo chính thống về tình trạng hạt nhân khẩn cấp ở Fukushima, Nhật Bản. Một số nói nó ít nghiêm trọng hơn thảm họa Chernobyl nhiều, một số khác nói nó sẽ tồi tệ hơn nhiều so với Chernobyl. Chúng ta phải hiểu thế nào đây? Ai là đáng tin cậy?

Với tình hình hiện nay, tôi nghĩ rằng điều hợp lý nên làm là chờ đợi và chuẩn bị cho trường hợp tồi tệ nhất, hy vọng cho trường hợp tốt nhất và chấp nhận những gì sẽ đến. Với suy nghĩ này, tôi quyết định điểm lại những tài liệu có từ trước tới nay về những phương pháp chữa trị dễ áp dụng trong trường hợp xảy ra thảm họa hạt nhân, cũng như những tài liệu về thảm họa Chernobyl. Những gì tôi tìm thấy thực sự gây sốc, nhưng tôi cũng tìm được những phương pháp chữa trị căn bản có thể bảo vệ cho bạn và người thân của bạn.

Bài viết này bao gồm một tóm tắt khái quát tài liệu Chernobyl: Consequences of the Catastrophe for People and the Environment (Chernobyl: Hậu quả của Thảm họa đối với Con người và Môi trường), xuất bản trong Annals of the New York Academy (Biên niên sử của Học viện New York) (2009). Các tác giả - Alexey V. Nesterenko (Viện An toàn Phóng xạ (BELRAD), Belarus) và Alexey V. Yablokov (Viện Khoa học Nga) cùng với Vassily B. Nesterenko – đã tổng hợp thông tin từ hàng ngàn bài viết khoa học và những tài liệu khác, bao gồm cả những phương pháp trị liệu tự nhiên đã được sử dụng thành công và có thể áp dụng rộng rãi. Cũng có nhiều nghiên cứu khác về những phương pháp trị liệu hiệu quả nhưng không được phổ biến trong y học chính thống. Nó sẽ cho bạn biết rõ những gì cần làm trong trường hợp xảy ra một thảm họa hạt nhân ở Nhật Bản.


Đây là một vấn đề đáng quan ngại với tất cả chúng ta vì không có nước nào trên thế giới tránh được hoàn toàn khỏi bụi phóng xạ.

Một Bài học từ Lịch sử hay Những điều Chúng ta có thể Chờ đợi: Thảm họa Chernobyl

Chúng ta chỉ cần nhìn lại thảm họa Chernobyl để hiểu tại sao có nhiều báo cáo trái ngược và có ít thông tin thực sự về những gì đang xảy ra tại Nhật Bản đến vậy.

Trong những ngày cuối xuân và đầu hè năm 1986, chất phóng xạ được giải phóng từ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl và rơi xuống đầu hàng trăm triệu người. Mức độ chất phóng xạ đo được cao hơn hàng trăm lần so với mức độ tạo ra bởi quả bom hạt nhân Hiroshima.

Cuộc sống bình thường của hàng chục triệu người bị hủy hoại. Ngày nay, hơn 6 triệu người sống trong vùng có mức phóng xạ nguy hiểm. Hơn 20 năm sau thảm họa ấy, do sự di chuyển tự nhiên của chất phóng xạ, những hậu quả nghiêm trọng tại những vùng ấy không những không giảm đi mà trên thực tế còn tăng lên, và sẽ còn tăng lên trong nhiều năm tới.

Các nhà chức trách thường cung cấp những phương pháp chữa trị và ngăn ngừa rẻ tiền nhất, đồng thời chối bỏ những thực tế và dữ liệu được thu thập về mức độ phóng xạ nguy hiểm trong dân chúng, trong thức ăn và trong môi trường.

Nghe quen thuộc phải không? Thái độ này là điều bình thường chứ không phải ngoại lệ.

Kết quả của thảm họa ấy là 40% châu Âu bị nhiễm mức phóng xạ nguy hiểm. Châu Á và Bắc Mỹ cũng bị tiếp xúc với lượng bụi phóng xạ đáng kể. Theo Yablokov và những người khác, tuyên bố của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Ủy ban Khoa học của Liên hợp quốc về Ảnh hưởng của Bức xạ Nguyên tử (UNSCEAR), và nhiều tổ chức khác rằng bụi phóng xạ từ Chernobyl "chỉ" làm tăng thêm 2% nền phóng xạ tự nhiên, đã bỏ qua nhiều vấn đề:
"Thứ nhất, nhiều vùng lãnh thổ vẫn tiếp tục có mức phóng xạ cao đến mức nguy hiểm. Thứ hai, mức phóng xạ cao lan rộng trên nhiều vùng trong những tuần đầu ngay sau thảm họa. Thứ ba, sự phóng xạ kinh niên ở mức độ thấp sẽ xảy ra trong hàng thập kỷ sau thảm họa. Thứ tư, bất cứ sự gia tăng nào trong mức phóng xạ hạt nhân đều có ảnh hưởng lên các tế bào cơ thể và sinh sản của mọi loài."
Một bài học quan trọng khác từ trải nghiệm Chernobyl là các chuyên gia và tổ chức liên quan đến ngành công nghiệp hạt nhân thường bỏ qua hay bác bỏ những hậu quả của thảm họa. Phải đến 8 hay 9 năm sau thảm họa thì các nhà chức trách trong ngành y mới bắt đầu công nhận sự gia tăng đồng loạt của chứng đục thủy tinh thể trong dân chúng. Điều tương tự cũng xảy ra với bệnh ung thư tuyến giáp, ung thư máu và các rối loạn ở hệ thống thần kinh trung ương.

Thêm vào đó, người ta còn biết rằng tỷ lệ thực phẩm có mức phóng xạ vượt quá chuẩn cho phép chính thức không hề giảm 14 năm sau thảm họa Chernobyl năm 1986. Trái lại, tỷ lệ này bắt đầu gia tăng vào năm 1996. Mặc dù bị che giấu bởi các nhà chức trách, bức tranh toàn diện về sự nhiễm xạ trong thực phẩm do Chernobyl tại những nước cách xa như Hoa Kỳ bắt đầu hiện ra:
"Nhiều người tiếp xúc thường xuyên với lượng phóng xạ nồng độ thấp suốt 23 năm sau thảm họa, chủ yếu do ăn thực phẩm bị nhiễm xạ. Một yếu tố quan trọng cần xem xét là với cùng một chế độ ăn, mức phóng xạ một đứa trẻ nhận được là cao hơn 3 đến 5 lần so với người lớn. Do hơn 90% luợng phóng xạ ngày nay là từ Xêzi-137 (Cs-137), chất có chu kỳ bán rã khoảng 30 năm, những khu vực bị nhiễm xạ sẽ tiếp tục có mức phóng xạ nguy hiểm trong vòng ba thế kỷ tới.

Khi trẻ em có cùng thực đơn như người lớn, chúng nhận 5 lần mức phóng xạ từ thực phẩm do trọng lượng cơ thể nhỏ hơn và quá trình trao đổi chất mạnh hơn của chúng. Trẻ em sống ở vùng nông thôn nhận liều phóng xạ cao hơn 5 đến 6 lần so với trẻ em thành thị cùng lứa tuổi.

Sự tiếp xúc hàng ngày với liều lượng chất phóng xạ nhỏ (hầu hết là Cs-137) là hầu như không thể tránh khỏi vì chúng đi vào cơ thể qua thức ăn (đến 94%), nước uống (đến 5%) và qua không khí (khoảng 1%). Sự tích tụ của chất phóng xạ trong cơ thể là nguy hiểm, đặc biệt với trẻ em, và với những người sống trong vùng bị nhiễm xạ nơi có hàm lượng Cs-137 cao trong thực phẩm địa phương. Hiện nay sự tồn tại của chất phóng xạ trong cơ thể là nguyên nhân chính cho sự suy giảm sức khỏe cộng đồng ở những vùng bị nhiễm xạ.

Kinh nghiệm cho thấy những hệ thống giám sát phóng xạ chính thức hiện có là không đầy đủ (điều này đúng không chỉ với những nước thuộc Liên Xô cũ). Nói chung, những hệ thống này chỉ theo dõi một số địa phương, không đo đạc từng cá nhân, và thường che giấu thông tin quan trọng khi công bố. Điểm chung của tất cả các chính phủ là giảm thiểu chi phí cho những gì mà họ không trực tiếp chịu trách nhiệm, ví dụ như vụ tan chảy Chernobyl xảy ra 23 năm trước. Do vậy, các nhà chức trách không nhiệt tình lắm trong việc tìm kiếm những dữ liệu khách quan về mức độ nhiễm phóng xạ trong cộng đồng, cá nhân và thực phẩm.

Chúng ta phải nhận trách nhiệm không phải chỉ vì sức khỏe của chính chúng ta, mà còn vì sức khỏe của những thế hệ con người, cây cối và động vật sau này có thể bị tổn hại bởi những đột biến có được từ việc tiếp xúc với lượng phóng xạ dù là nhỏ nhất. [Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. and Yablokov]
Tất cả mọi người sống trong những vùng lãnh thổ ảnh hưởng nặng nề bởi bụi phóng xạ từ Chernobyl vẫn tiếp tục tiếp xúc với liều lượng nhỏ phóng xạ. Nếu không có thiết bị chuyên dùng, chúng ta sẽ không thể biết được mức độ chất phóng xạ trong thực phẩm, nước uống, và cơ thể chúng ta.

Các nguyên tố phóng xạ Xêzi-137 (Cs-137), Strontium-90 (Sr-90), Plutonium (Pu) và Americium (Am) giải phóng trong vụ Chernobyl tập trung ở rễ cây và giờ đây chúng ta biết chúng sẽ tiếp tục được phát tán trong hàng thập kỷ, thậm chí là hàng thế kỷ trong tương lai. Sản phẩm nông nghiệp ở tất cả các nước từng bị nhiễm xạ bởi Chernobyl đã chứa – và sẽ tiếp tục chứa – chất phóng xạ.

Mức độ chất phóng xạ trong cơ thể chúng ta thay đổi tùy từng cơ quan. Trong vụ Chernobyl, những cơ quan bị ảnh hưởng nặng nề nhất (biết được từ giải phẫu tử thi) theo mức độ giảm dần là tuyến giáp, tuyến thượng thận, tuyến tụy, tuyến ức, hệ thống cơ xương, lá lách, tim và gan.

Tuyến giáp bị ảnh hưởng nhất vì i-ốt phóng xạ (I-ốt-131) gắn kết tại đó. Do vậy, bổ sung i-ốt không phóng xạ là một liệu pháp quan trọng trong trường hợp bị phơi nhiễm phóng xạ. Chất i-ốt tự nhiên sẽ gắn kết với tuyến giáp, đẩy i-ốt phóng xạ ra ngoài. Tình trạng của tuyến thượng thận cũng đáng chú ý, vì nhiều trong số những căn bệnh "mới" nổi lên sau thảm họa Chernobyl có những triệu chứng giống với triệu chứng của chứng mệt mỏi tuyến thượng thận.

Tổng số người chết từ vụ Chernobyl trong khoảng thời gian từ 1987 đến 2004 đã lên tới gần 417.000 tại một số vùng thuộc châu Âu, châu Á và châu Phi, và gần 170.000 tại Bắc Mỹ, với tổng số gần 824.000 người chết trên cả thế giới. Con số nạn nhân Chernobyl này sẽ còn tiếp tục gia tăng trong nhiều thế hệ tới.

Sơ lược về Phóng xạ

Nhiễm độc phóng xạ gây tổn hại cho các cơ quan nội tạng qua sự ion hóa quá mức. Phóng xạ ion hóa bao gồm những hạt hoặc sóng điện tử với năng lượng đủ để tách electron khỏi các nguyên tử hay phân tử, qua đó ion hóa chúng. Quá trình ion hóa này sản sinh ra các gốc tự do, chúng là những nguyên tử hay phân tử chứa các electron không thành cặp. Chúng có xu hướng phản ứng hóa học rất mạnh do cấu trúc electron của chúng.

Điều này có nghĩa là chúng trở thành những ion không ổn định và phản ứng hóa học rất mạnh, tương tự như các gốc tự do bình thường trong cơ thể. Các gốc tự do không ổn định này tìm cách trở về trạng thái ổn định bằng cách 'đánh cắp' một electron từ bất kỳ phân tử lân cận nào, khiến cho phân tử đó cũng trở nên bị tổn hại. Đây là cách các gốc tự do trong cơ thể chúng ta được sinh ra và gây sự sưng tấy, một quá trình được biết rộng rãi hơn dưới cái tên ôxy hóa, tổn thương do ôxy hóa hay ôxy hóa chất béo. Sự ôxy hóa thậm chí còn có thể gây ra những biến đổi có hại trong DNA của bạn. Đấy là lý do tại sao các chất chống ôxy hóa lại quan trọng đến như vậy. Các chất chống ôxy hóa giúp chống lại hoặc trung hòa các gốc tự do trước khi chúng có thể gây tổn hại cho các tế bào khỏe mạnh của chúng ta bằng cách cho mượn một electron khi gốc tự do cần nó để trở về trạng thái ổn định. Đây cũng là lý do tại sao chúng tôi mê nhiều chất chống ôxy hóa đến vậy, ví dụ như vitamin C, E, taurine, coenzyme Q10, melatonin, carotenoids, resveratrol v.v...

Các Triệu chứng Lâm sàng

Các bức xạ ion hóa thâm nhập vào cơ thể bạn có thể làm ảnh hưởng đến cơ thể theo một số cách khác nhau, và những ảnh hưởng sức khỏe tiêu cực do phơi nhiễm phóng xạ có thể không biểu hiện rõ trong nhiều năm.

Các rối loạn sức khỏe liên quan đến bức xạ Chernobyl bao gồm sự gia tăng tỷ lệ người chết và người bị bệnh của những nhóm bệnh sau:
  • Hệ thống tuần hoàn (chủ yếu do chất phóng xạ phá hủy nội mạc, lớp lót bên trong của mạch máu).
  • Hệ thống nội tiết (đặc biệt là các vấn đề về tuyến giáp).
  • Hệ thống miễn dịch (Bệnh "AIDS Chernobyl" làm gia tăng tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng của tất cả các bệnh khác).
  • Hệ thống hô hấp.
  • Các rối loạn tiết niệu và sinh dục.
  • Hệ thống cơ xương khớp (bao gồm những thay đổi mang tính bệnh lý trong cấu trúc và thành phần của xương: bệnh thiếu xương và loãng xương).
  • Hệ thần kinh trung ương (những thay đổi trong thùy trán và thùy thái dương của bộ não dẫn đến suy giảm trí thông minh và các rối loạn tâm thần và hành vi).
  • Mắt (đục thủy tinh thể, rối loạn khúc xạ, phá hủy thủy tinh thể).
  • Đường tiêu hóa.
  • Dị tật bẩm sinh (bao gồm những dị tật ở tay chân và đầu mà trước đây hiếm gặp).
  • Ung thư tuyến giáp (Tất cả các dự báo về chứng ung thư này đều sai lầm. Ung thư tuyến giáp liên quan đến Chernobyl khởi phát rất nhanh và phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng cả trẻ em lẫn người lớn. Sau khi phẫu thuật, người bệnh bị phụ thuộc vào thuốc thay thế hormone suốt đời).
  • Ung thư máu, không chỉ ở trẻ em mà cả ở người lớn nói chung tại những vùng bị nhiễm độc.
[Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. and Yablokov, Chernobyl: Consequences of the Catastrophe for People and the Environment.]

Những hậu quả về sức khỏe khác của thảm họa Chernobyl bao gồm:
  • Thay đổi cân bằng sinh học của cơ thể, dẫn đến sự gia tăng những căn bệnh nghiêm trọng do nhiễm độc đường ruột, nhiễm khuẩn và nhiễm trùng máu.
  • Tăng nặng các căn bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng (ví dụ như viêm gan virus và các bệnh về hô hấp do virus).
  • Gia tăng tỷ lệ các rối loạn về sức khỏe ở trẻ em sinh ra bởi cha mẹ bị nhiễm xạ (cả những người ở lại giải quyết hậu quả tại Chernobyl và những người đã rời vùng bị nhiễm xạ), đặc biệt là với những trẻ em bị chiếu xạ khi còn trong bào thai. Những rối loạn này, liên quan đến hầu như tất cả mọi cơ quan trong cơ thể, còn bao gồm cả thay đổi về gen.
  • Tình trạng sức khỏe thảm khốc của những người ở lại Chernobyl giải quyết hậu quả (đặc biệt những người làm việc trong thời gian 1986-1987).
  • Sự già trước tuổi ở cả người lớn lẫn trẻ em.
  • Gia tăng tỷ lệ đa đột biến gen.
Chernobyl đã "làm giàu" vốn từ vựng ngành y với những thuật ngữ như "tái sinh ung thư", cùng với ba hội chứng mới:
  • Vegetovascular dystonia (rối loạn trương lực tim mạch) – hoạt động sai lạc của hệ thống thần kinh điều khiển tim mạch và các cơ quan nội tạng khác (còn được gọi là rối loạn thần kinh thực vật), với những triệu chứng lâm sàng xuất hiện khi bị stress.
  • Incorporated long-life radionuclides (hấp thụ phóng xạ phân rã chậm) – rối loạn về chức năng và cấu trúc của hệ thống tim mạch, thần kinh, nội tiết, sinh sản và các hệ thống khác do hấp thụ phóng xạ.
  • Acute inhalation lesions of the upper respiratory tract (thương tổn hô hấp cấp tính ở vùng trên khí quản) – sự kết hợp của các triệu chứng viêm mũi, ngứa họng, ho khan, khó thở, thở gấp do hít phải bụi phóng xạ.
[Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. and Yablokov, Chernobyl: Consequences of the Catastrophe for People and the Environment.]

Còn có nhiều hội chứng mới khác phản ánh sự gia tăng của một số căn bệnh sau Chernobyl. Trong số chúng:
  • Hội chứng mệt mỏi mãn tính – mệt mỏi cùng cực và thường trực, mệt mỏi không có nguyên nhân cụ thể, trầm cảm lặp lại, mất trí nhớ, đau lan tỏa khắp các cơ và khớp, sốt và cảm giác lạnh toát, tính khí thay đổi thường xuyên, sút cân; nó còn hay được cho là liên quan với rối loạn của hệ thống miễn dịch và hệ thống thần kinh trung ương.
  • Hội chứng bệnh mãn tính do phóng xạ – sự kết hợp của mệt mỏi cùng cực, chóng mặt, run rẩy và đau lưng.
  • Hội chứng già sớm – sự khác biệt giữa tuổi thực và tuổi của cơ thể với những căn bệnh đặc trưng của người già xảy ra ở tuổi còn trẻ.
Những hội chứng Chernobyl khác như "bức xạ khi trong bào thai", "AIDS Chernobyl", "tim Chernobyl", "tay chân Chernobyl" vẫn còn đợi nghiên cứu chi tiết hơn của ngành y.

Sự thoái hóa của sức khỏe cộng đồng (đặc biệt là trẻ em) tại những vùng nhiễm xạ Chernobyl 23 năm sau thảm họa không phải là do căng thẳng tâm lý hay nỗi sợ phóng xạ vô cớ, hay do việc phải di chuyển nơi ở. Nó có nguyên nhân phần lớn và chủ yếu từ phóng xạ Chernobyl. Sau cú sốc mạnh đầu tiên vào năm 1986, còn có liều phóng xạ thấp mãn tính và thường trực từ đó đến giờ.

Các yếu tố tâm lý hoàn toàn không có liên quan gì đến những chứng bệnh mô tả ở trên vì tỷ lệ tử vong tiếp tục gia tăng nhiều năm sau thảm họa, khi mà những lo ngại về phóng xạ đã giảm đi.

Nhiễm trùng Gia tăng
Có bằng chứng về sự gia tăng tỷ lệ và mức độ của các căn bệnh đặc trưng bởi nhiễm độc đường ruột, viêm dạ dày và đường ruột, nhiễm khuẩn huyết, viêm gan virus và virus đường hô hấp tại những vùng nhiễm xạ Chernobyl (Batyan and Kozharskaya, 1993; Kapytonova and Kryvitskaya, 1994; Nesterenko et al., 1993; Busuet at al., 2002; và những người khác). Sự mất ổn định về gen gia tăng rõ rệt ở những vùng nhiễm xạ và khiến người dân nhạy cảm hơn với các căn bệnh nhiễm trùng và virus (Vorobtsova et al., 1995).
Trẻ em Chernobyl
Câu hỏi liệu sự xuất hiện và lan rộng của những căn bệnh nhiễm ternobylrùng nguy hiểm là do đột biến gen ở vi sinh vật (khiến chúng nguy hiểm hơn), do sức đề kháng miễn dịch của cộng đồng bị giảm sút, hay do cả hai yếu tố, vẫn chưa được trả lời đầy đủ.
Một gam đất chứa khoảng 2.500.000.000 vi sinh vật (vi trùng, bào tử nấm và động vật nguyên sinh). Đến 3 kg khối lượng cơ thể một người trưởng thành là vi khuẩn, virus và bào tử nấm. Mặc dù chúng đại diện cho những hệ thống sinh thái quan trọng và sống động đến như vậy, có rất ít dữ liệu về những hậu quả của thảm họa Chernobyl đối với vi sinh vật. Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. và Yablokov
Có sự kích hoạt của retrovirus (Kavsan et al., 1992). Lao phổi trở nên nguy hiểm hơn ở những vùng nhiễm xạ của Belarus (Chernetsky và Osynovsky, 1993; Belookaya, 1993; Borschevsky et al., 1996). Từ 1993 đến 1997, các virus viêm gan B, C, D và G được kích hoạt một cách rõ rệt trong những vùng bị nhiễm xạ nặng của Belarus (Zhavoronok et al., 1998a,b). Virus herpes được kích hoạt trong những vùng nhiễm xạ nặng của Belarus 6 đến 7 năm sau thảm họa (Matveev, 1993; Matveev et al., 1995; Voropaev et al., 1996). Những loại vi khuẩn đất tích tụ Cs-137 nhiều nhất gồm có Agrobacterium sp., Enterobacter sp. và Klebsiella sp. Sự suy giảm mạnh mẽ của vi khuẩn đường ruột có ích (vi khuẩn bifidus) và sự gia tăng mạnh của vi khuẩn thuộc lớp Escherichia, đặc biệt là vi khuẩn E. Coli, đã được ghi nhận ở những đứa trẻ sơ tán tại Ukraine.
Tất cả các vi sinh vật (virus, vi khuẩn, nấm và động vật nguyên sinh) trong cộng đồng vi sinh vật đều trải qua những thay đổi mau lẹ sau khi có lượng bức xạ bổ sung. Cơ chế của những thay đổi đó đã được biết rõ: đó là sự gia tăng đột biến gen và sự tích tụ của những gen mới mà vì lý do nào đó có vẻ có ích hơn trong điều kiện mới. Cơ chế tiến hóa vi sinh này đã được kích hoạt trong tất cả các vùng bị nhiễm xạ và dẫn đến sự kích hoạt những vi khuẩn và virus cũ cùng với sự xuất hiện của những dạng vi khuẩn và virus mới. Tuyệt đại đa số những vi sinh vật đã được nghiên cứu tại các vùng lãnh thổ ảnh hưởng bởi Chernobyl đều đã trải qua những thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ.

Kiến thức hiện tại của chúng ta còn quá hạn chế để hiểu thậm chí chỉ là những hậu quả chính của những thay đổi gen không thể tránh khỏi trong vô số những virus, vi khuẩn, động vật nguyên sinh và nấm sinh sống trong ruột, phổi, máu, cơ quan nội tạng và tế bào của con người. Mối liên kết mạnh mẽ giữa các chất gây ung thư và virus (virus papilloma, virus viêm gan, virus Helicobacter pylori, virus Epstein – Barr, virus Kaposi's sarcoma và virus herpes) là một lý do nữa tại sao tỷ lệ ung thư lại gia tăng ở những vùng bị nhiễm xạ Chernobyl (để có tài liệu tóm tắt về vấn đề này, xem Sreelekha et al., 2003).

Không chỉ ung thư mà còn nhiều căn bệnh khác cũng có liên quan đến virus và vi khuẩn. Những thay đổi có hại do chiếu xạ xảy ra ở cộng đồng vi sinh vật trong cơ thể người có thể làm tăng độ nhạy cảm với các bệnh nhiễm trùng, viêm tấy có nguồn gốc vi khuẩn hoặc virus (cúm, bệnh đường ruột mãn tính, viêm thận, viêm bàng quang, viêm âm đạo, viêm niêm mạc kết tràng, hen suyễn, viêm da và bệnh thiếu máu cục bộ), và các bệnh lý khác của thai phụ.

Những hậu quả lâu dài đối với cộng đồng vi sinh vật có thể tồi tệ hơn những gì đã được biết hiện nay.

- Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. and Yablokov
Sơ lược về Những Hậu quả với Môi trường

Tất cả các dự báo ban đầu về sự tan biến hay phân rã nhanh chóng của chất phóng xạ Chernobyl khỏi các hệ sinh thái đều sai lầm. Hiện nay chúng ta đã biết nó cần nhiều thời gian hơn nhiều vì chất phóng xạ lưu chuyển. Tình trạng chung của sự nhiễm xạ trong nước, không khí và đất có vẻ có nhiều biến động lớn và quá trình lưu chuyển của Sr-90, Cs-137, Pu và Am vẫn mang lại nhiều ngạc nhiên cho các nhà nghiên cứu Chernobyl.
Do sự tích tụ của Cs-137, Sr-90, Pu và Am trong lớp đất gốc, chất phóng xạ tiếp tục lưu chuyển lên cây cối trong những năm gần đây. Đi cùng với nước lên những bộ phận trên mặt đất của cây, các chất phóng xạ (mà lúc trước đã biến khỏi mặt đất) tập trung ở những bộ phận ăn được, dẫn đến sự gia tăng của tỷ lệ và mức độ chiếu xạ từ bên trong ở người, mặc dù tổng lượng chất phóng xạ có giảm đi từ sự phân rã tự nhiên.

Trong năm 1986, mức phóng xạ ở cây cối và động vật tại Tây Âu, Bắc Mỹ, Bắc Cực và Đông Á có những lúc lên đến hàng trăm hay thậm chí hàng ngàn lần mức độ cho phép. Xung phóng xạ cao ban đầu đó được nối tiếp bởi sự phơi nhiễm mãn tính với lượng phóng xạ thấp, dẫn đến những rối loạn hình thái, sinh lý và di truyền trong tất cả các sinh vật đã được nghiên cứu trong các vùng bị nhiễm xạ - cây cối, động vật có vú, chim chóc, động vật lưỡng cư, cá, động vật không xương sống, vi khuẩn và virus.

Những gì xảy ra với chuột đồng và ếch nhái trong vùng Chernobyl chỉ ra những gì có thể xảy ra với con người trong những thế hệ tới: tỷ lệ đột biến gia tăng, tỷ lệ tử vong tăng, tuổi thọ giảm, giảm cường độ sinh sản, và thay đổi trong tỷ lệ giới tính nam/nữ.

[Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. and Yablokov, Chernobyl: Consequences of the Catastrophe for People and the Environment.]
Những Phương pháp Trị liệu đã được Chứng tỏ

Những liệu pháp mô tả dưới đây được bán không cần đơn thuốc ở hầu hết các nước.

Các chất xanh và đồ biển

Ở Chernobyl, 5 gam spirulina (tảo xoắn) dùng trong 45 ngày đã được sử dụng thành công chống lại nhiễm độc phóng xạ. Tảo lục (chlorella) cũng có tác dụng bảo vệ chống phóng xạ. Một nghiên cứu cho thấy spirulina làm giảm mức độ phóng xạ trong nước tiểu đến 50% chỉ sau 20 ngày và Viện An toàn Bức xạ tại Belarus đã phát triển một chương trình đặc biệt để chữa trị 100 trẻ em trong mỗi đợt 20 ngày với spirulina. Hơn nữa, chương trình này chữa trị thành công trong điều kiện tồn tại phóng xạ trong các nguồn thức ăn và nước uống. Đặc biệt, spirulina được dùng cho trẻ em tiếp xúc với liều lượng chất phóng xạ cao. Không có tác dụng phụ nào được ghi nhận. Chú ý chỉ mua spirulina hay chlorella từ những nguồn được chứng nhận là không nhiễm kim loại nặng.

Các nghiên cứu về các loại rong biển có natri alginate cho thấy chúng liên kết có chọn lọc với strontium phóng xạ và loại trừ nó khỏi cơ thể. Natri alginate có trong nhiều loại tảo biển, đặc biệt là tảo bẹ (kelp). Natri alginate liên kết mạnh với những chất như strontium, canxi, barium, cadmium và radium. Một số tảo biển bị nhiễm chì hoặc arsenic. Vì vậy bạn chỉ nên dùng tảo biển thu hoạch ở vùng biển sâu hoặc đã được kiểm chứng là không có kim loại nặng (như là tảo bẹ từ vùng bờ biển phía tây của Nam Phi).

Trà đen và trà xanh có tác dụng bảo vệ chống phóng xạ nếu uống trước hoặc ngay sau khi tiếp xúc với phóng xạ. Tác dụng bảo vệ chống phóng xạ này được nhận thấy trong nhiều nghiên cứu của Nhật Bản, và những nghiên cứu từ Trung Quốc cũng cho thấy nhiều thành phần trong trà là chất chống phóng xạ. Catechin trong trà có tính chống ôxi hóa và có tác dụng bảo vệ chống phóng xạ nếu uống cả trước và sau khi tiếp xúc với phóng xạ.

Tảo bẹ còn có i-ốt hữu cơ và nó sẽ làm bão hòa tuyến giáp khiến i-ốt phóng xạ không được hấp thụ. Bạn có thể phải dùng 1 đến 2 thìa cà phê hoặc 5 đến 10 viên nén.

Pectin

Pectin là một trong những cách hiệu quả nhất để bảo vệ chống phóng xạ khi việc ăn thực phẩm nhiễm xạ là không thể tránh khỏi. Các chế phẩm pectin, cùng với vitamin và khoáng chất, đã chứng tỏ hiệu quả cao trong việc loại trừ chất phóng xạ trong cơ thể. Liệu dùng là 5 gam một hoặc hai lần một ngày trong một tháng, 4 lần một năm.
Năm 1999, BELRAD cùng với "Hermes" Hmbh (Munich, Đức) phát triển thành công một hỗn hợp pectin táo gọi là bột Vitapect, bao gồm pectin (nống độ 18 – 20%) bổ sung bởi vitamin B1, B2, B6, B12, C, E, beta-carotene, axit folic, các nguyên tố vi lượng K, Zn, Fe và Ca, và hương liệu. Hỗn hợp phụ gia thực phẩm này đã được Bộ Y tế Belarus cấp giấy phép và được BELRAD sản xuất từ năm 2000.

Hỗn hợp phụ gia Vitapect kết hợp với chế độ dinh dưỡng không nhiễm xạ tỏ ra có hiệu quả hơn đến 50% so với cách chỉ dùng chế độ dinh dưỡng không nhiễm xạ trong việc làm giảm nồng độ Cs-137 (Nesterenko et al., 2004).

Một nghiên cứu lâm sàng trên 94 trẻ em, 7 đến 17 tuổi, chia làm hai nhóm dựa trên mức độ nhiễm Cs-137 ban đầu của chúng và được cho uống Vitapect trong 16 ngày (5 gam hai lần mỗi ngày) cho thấy sự giảm đáng kể của nồng độ Cs-137 và cải thiện rõ ràng trong điện tâm đồ của bọn trẻ.

Từ năm 1996 đến 2007, tổng cộng hơn 160.000 trẻ em Belarus đã được uống hỗn hợp phụ gia pectin trong những đợt điều trị 18 đến 25 ngày (5g hai lần mỗi ngày). Kết quả là mức độ Cs-137 trong các cơ quan nội tạng của bọn trẻ giảm trung bình 30 đến 40% sau mỗi đợt điều trị.

Dựa trên kinh nghiệm lâu dài, viện BELRAD khuyến nghị tất cả trẻ em sống trong những vùng lãnh thổ bị ô nhiễm phóng xạ nhận 4 đợt uống pectin mỗi năm cùng với khẩu phần ăn thông thường của chúng. 11 năm hoạt động của BELRAD trong việc điều trị và kiểm soát mức độ Cs-137 trong hơn 327.000 trẻ em không hề gây ra lo ngại hay sợ hãi phóng xạ vô căn cứ trong dân chúng và thay vào đó đã lan tỏa kiến thức về bảo vệ chống bức xạ và tăng cường ý thức trách nhiệm cá nhân đối với sức khỏe mỗi người.

[Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. and Yablokov, Chernobyl: Consequences of the Catastrophe for People and the Environment.]
Các Chất chống Ôxy hóa và Hợp chất Lưu huỳnh

Lưu huỳnh có một lịch sử lâu dài được sử dụng như một loại thuốc giải độc chống phơi nhiễm phóng xạ cấp tính. Các chất chống ôxy hóa có khả năng làm giảm tác dụng độc hại của phóng xạ trong cơ thể chúng ta. Nghiên cứu từ lâu đã xác định những chất chống ôxy hóa chứa lưu huỳnh là một trong những loại chất có tác dụng trị liệu tốt nhất.
DMSO có dưới nhiều dạng khác nhau

Dimethylsulfoxide (DMSO) là một hợp chất lưu huỳnh có từ lâu đời và là một chất chống ôxy hóa mạnh mẽ, đúng là thứ chúng ta cần để giải độc và bảo vệ chống lại phóng xạ. Một nghiên cứu của Nhật Bản cho thấy ngay cả ở nồng độ thấp, DMSO có tác dụng chống phóng xạ. Nó bảo vệ toàn cơ thể chống phóng xạ ở mức độ tế bào thông qua việc tạo thuận lợi cho các sợi kép DNA được hồi phục. Các thông tin và trải nghiệm về DMSO kỳ thú đến mức nó chỉ có thể được mô tả là kỳ diệu. Do tầm quan trọng của nó, chúng tôi đã dành riêng cả một bài viết về nó. Xem DMSO: The Antidote for Radiation Poisoning (DMSO: Chất giải độc chống nhiễm độc phóng xạ).

Việc sử dụng các chất chống ôxy hóa khác như alpha lipoic acid (ALA), Vitamin E, Vitamin C (ascorbic acid), vitamin B, selen (selenium), N-acetylcysteine (NAC) và các hợp chất lưu huỳnh khác là rất quan trọng. Điều quan trọng là dùng nhiều loại cùng một lúc vì chúng hoạt động tốt nhất khi kết hợp với nhau. Thêm vào đó, từng chất chống ôxy hóa riêng lẻ có thể trở thành chất ôxy hóa khi bản thân chúng đã bị ôxy hóa, và qua đó làm gia tăng tổn hại phóng xạ cho các mô và cơ quan nội tạng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tầm quan trọng của việc bổ sung chất chống ôxy hóa chống lại nguy hiểm bức xạ.

Alpha Lipoic Acid (ALA) là một chất bổ sung rất quan trọng. Nó tan trong cả nước và chất béo và nó có thể vượt qua rào ngăn giữa máu và não. Điều này nghĩa là nó có thể đến và ngăn ngừa tổn hại ở các mô mỡ, não bộ và tất cả mọi cơ quan nội tạng. ALA cũng có thể sửa chữa DNA. Nó là một chất chiết dẫn kim loại nặng tốt, nó bảo vệ tế bào ở tim và não, kích thích sự tái tạo của mô gan và được hấp thụ rất nhanh qua đường tiêu hóa. ALA tái chế các chất chống ôxy hóa khác như vitamin C, vitamin E và glutathione. Chất sau cùng này là một chất chống ôxy hóa không thể thiếu được trong việc giải độc và nó được tổng hợp trong ty lạp thể (mitochondrion) của tế bào. Chúng ta không bổ sung glutathione qua đường tiêu hóa được vì không phải lúc nào nó cũng có thể vượt qua lớp màng ty lạp thể. Vì vậy nó phải được tổng hợp bên trong ty lạp thể. ALA và sản phẩm sau chuyển hóa DHLA của nó kích thích tế bào sản xuất lượng glutathione nhiều hơn đáng kể (lên đến 70%). Vì vậy nếu nồng độ glutathione trong tế bào được giữ ở mức độ hợp lý bởi ALA, ngay cả khi tế bào bị nhiễm độc, nó cũng sẽ có cơ hội phục hồi tốt thay vì chết đi. ALA là cực kỳ quan trọng trong việc giảm thiểu hay đảo ngược các tổn hại ôxy hóa do phóng xạ. Liều dùng được khuyến nghị của ALA là 100mg hai lần mỗi ngày sau bữa ăn. Tuy vậy nhiều nơi đã dùng liều cao hơn từ 300mg đến 600mg. Một nghiên cứu tiến hành trên một số người đã làm việc trong chiến dịch làm sạch Chernobyl 10 năm sau thảm họa đó cho thấy liều 600mg ALA trong hai tháng có thể làm bình thường hóa nhiều, nhưng không phải tất cả, biểu hiện bất thường về sức khỏe của họ.

Chất chống ôxy hóa N-acetyl cysteine (NAC), một nguồn glutathione và lưu huỳnh, là một chất bổ sung rất tốt. Nhiều nghiên cứu cho rằng nó có thể có hiệu quả cứu sống những người từng tiếp xúc với liều phóng xạ đủ gây chết người, và làm mất hầu hết các biểu hiện bất thường ở những người tiếp xúc với liều thấp hơn. Nó cũng được bán rộng rãi. Khoảng 500mg hai lần mỗi ngày là một liều hợp lý, mặc dù một số nơi đã có những thành công lớn khi dùng 5g NAC mỗi ngày (trong bệnh viện) trong vòng 7 ngày để giải độc kim loại nặng.

Những chất bổ sung quan trọng khác bao gồm magiêvitamin C. Để biết thêm thông tin về các loại magiê và liều lượng khuyến nghị, xem ở đây. Canxi và magiê cùng giúp cơ thể thải loại Strontium 90, nhưng nhớ là uống đủ magiê để cơ thể có thể hấp thụ được canxi.

Với vitamin C (ascorbic acid), 1-4g mỗi ngày trong điều kiện sức khỏe bình thường là một liều hợp lý. Nhưng trong lúc điều trị giải độc hay sau khi bị phơi nhiễm cấp tính, cần liều cao hơn. Vitamin C không chỉ có thể bảo vệ chống phóng xạ mà còn có thể sửa chữa tổn hại từ những lần tiếp xúc trước. Nó cũng có tác dụng rất tốt trong trường hợp bị nhiễm trùng. Bạn có thể thử uống 4g vitamin C 3 lần mỗi ngày. Nếu bạn bị tiêu chảy hay đầy bụng, giảm đi một liều. Nếu bụng không có biểu hiện gì, bạn có thể tăng liều dùng hơn nữa.

Cũng nên xem xét uống một loại vitamin B tổng hợp tốt để giúp bình thường hóa lượng hồng cầu và bạch cầu bởi vì sự hủy diệt bạch cầu do phóng xạ có thể diễn ra trong thời gian dài.

Vitamin E 800-1000 IU mỗi ngày và selen (selenium) 200mcg mỗi ngày cũng là quan trọng vì nghiên cứu về phóng xạ đưa ra bằng chứng vitamin E và selen hoạt động cùng nhau để bảo vệ chống tổn hại ôxy hóa.

Kẽm từng được dùng thành công để chiết dẫn americium-241 khỏi nạn nhân của tai nạn hạt nhân. Kẽm tự nhiên cũng giúp cơ thể loại bỏ nhiều loại kim loại nặng bao gồm cả cadmium, nhôm và chì. Liều khuyến nghị là 50mg mỗi ngày. Bạn nên uống một loại khoáng chất tổng hợp tốt để tránh thiếu hụt hay mất cân bằng do việc tăng liều lượng kẽm.

Nếu có thiếu hụt kali, một số chất phóng xạ như Xêzi-137, xêzi-134, kali-40 và kali-42 được cơ thể hấp thụ nhiều hơn. Bổ sung quá nhiều kali cũng có thể nguy hiểm, vì vậy nhớ làm theo hướng dẫn trên nhãn.

Melatonin, ngoài việc là "hormone ngủ" của chúng ta, còn có tính chất chống ôxy hóa mạnh. Động vật thí nghiệm bị chiếu xạ toàn thân rồi cho uống melatonin có tỷ lệ sống sót cao hơn, và tác dụng bảo vệ chống tổn hại ôxy hóa trên toàn thân là rõ ràng. Melatonin uống qua miệng sẽ làm tăng lượng melatonin trong máu và trong các mô. Ngay sau khi tiếp xúc với phóng xạ, người dân có thể tự bảo vệ mình bằng cách uống melatonin, và có thể lặp lại nhiều lần nếu cần.

Curcumin là một hợp chất tự nhiên có trong nghệ. Curcumin đã được chứng tỏ có tác dụng chống ôxy hóa, chống viêm tấy và làm giảm khối u trong nhiều loại bệnh bao gồm cả bệnh ở phổi gây ra bởi phóng xạ.

Thở Dưỡng sinh và Thiền
Chương trình Phục hồi và Chữa lành Éiriú Eolas là thành phần quan trọng trong việc giải độc

Chương trình thở dưỡng sinh và thiền Éiriú Eolas có những kỹ thuật kiểm soát stress hiệu nghiệm. Chúng kích thích dây thần kinh phế vị, qua đó kích hoạt hệ thần kinh phó giao cảm, một hệ thống chống viêm tấy mạnh mẽ của cơ thể. Chương trình cũng bao gồm những kỹ thuật giúp giải phóng gánh nặng tinh thần. Nó có thể được áp dụng để cải thiện các triệu chứng khó thở, bệnh tự miễn và các vấn đề về tình cảm. Nó làm giảm tổn hại ôxy hóa và làm tăng sức khỏe chung của cơ thể. Do vậy, nó có thể được áp dụng trong nhiều trường hợp, bao gồm cả phơi nhiễm phóng xạ mãn tính.
Không còn chút nghi ngờ nào rằng các yếu tố xã hội và kinh tế là rất nghiêm trọng với những người bị ốm do nhiễm xạ. Bệnh tật, con cái bị ốm đau hay dị dạng, cái chết của người thân và bạn bè, mất nhà cửa và của cải, mất việc làm, phải dời chỗ ở đều mang lại những stress nghiêm trọng về tài chính và tinh thần. - Alexey V. Yablokov, Vassily B. Nesterenko, and Alexey V. Nesterenko.
Trong quá trình tập các bài thở dưỡng sinh và thiền, nồng độ các hormone chống stress GABA, melatonin và serotonin đều tăng và nồng độ của các hormone stress cortisol và norepinephrine giảm xuống. Hãy tìm hiểu thêm về những lợi ích của chương trình này ở đây (bằng tiếng Việt). Chương trình được cung cấp miễn phí tại eebreathe.com

Chế độ Ăn uống

Có nhiều kỹ thuật nấu nướng đơn giản để làm giảm chất phóng xạ: luộc thực phẩm nhiều lần và đổ nước đi, rửa kỹ thực phẩm, ngâm một số loại thực phẩm và đổ nước đi, tránh ăn vỏ hoa quả và củ, muối một số thực phẩm nhưng đổ nước muối đi, v.v...

Hãy nhớ là một cách khác để tăng cường khả năng giải độc của cơ thể và nồng độ chất chống ôxy hóa nói chung là qua những thức ăn mà chúng ta ăn. Đây là chìa khóa sống còn trong những thời điểm căng thẳng như thế này. Một chế độ ăn uống đúng đắn là rất quan trọng để lấy lại sức khỏe trong một môi trường độc hại. Nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân của nhiều người trong nhóm chúng tôi chỉ ra rằng những người theo một chế độ ăn không ngũ cốc, ít tinh bột (không gluten) và không sữa có sức khỏe tốt hơn NHIỀU.

Bệnh tật mãn tính thường liên quan đến hệ thống miễn dịch mất cân bằng. Nó thường liên quan đến việc nhạy cảm với một số thức ăn. Điều này dẫn đến viêm tấy mãn tính trong cơ thể - dẫn đến bệnh tật. Đây là lý do tại sao cần trải qua một chế độ ăn loại trừ để làm cân bằng hệ thống miễn dịch của cơ thể. Một số tế bào miễn dịch của chúng ta cần 6 tháng để tái sinh, vì vậy có thể phải cần đến thế để thấy kết quả nếu bạn bị bệnh nặng. Nhưng thông thường, bạn có thể thấy kết quả tích cực chỉ trong hai tuần đầu thực hiện một chế độ ăn đúng đắn, ngay cả khi bạn không đủ khả năng tài chính cho một phương thức trị liệu nào khác. Bạn có thể tìm thông tin về chế độ ăn uống đúng và cách chuyển dần sang nó ở đây.

Mọi người đều khác nhau và chỉ bằng cách kiểm nghiệm từng loại thức ăn chúng ta mới có thể biết tất cả những thức ăn có hại cho chúng ta. Tuy vậy, không một người nào nên ăn ngũ cốc, sản phẩm sữa hay thực phẩm chế biến sẵn vì cơ thể con người đơn giản là không có khả năng tiêu hóa chúng một cách phù hợp. Những gì chúng ta ăn là rất quan trọng trong việc phục hồi sức khỏe và nó trở thành một loại thuốc chữa bệnh rất tốt khi áp dụng đúng đắn.

Tỏi và hành là những thực phẩm chứa lưu huỳnh. Chúng giúp gắn kết và khử hoạt tính các đồng vị phóng xạ và các kim loại độc như cadmium, chì và thủy ngân. Chất lưu huỳnh sẽ giúp thận và gan giải độc cho cơ thể.

Cách tốt nhất để giảm lượng chất phóng xạ vào cơ thể là tránh những thực phẩm có khả năng nhiễm xạ cao và ăn những thực phẩm có mức thấp hơn. Tuy vậy, điều này không phải là dễ dàng do nồng độ trung bình của các chất phóng xạ tích tụ trong thực phẩm là khác nhau tùy theo vùng do sự khác nhau trong đất đai, kỹ thuật canh tác, v.v...

Kinh nghiệm Chernobyl cho chúng ta biết ngâm trong nước, luộc, ướp muối và muối thực phẩm như rau quả có thể làm giảm lượng chất phóng xạ trong một số loại thực phẩm nhiều lần. Sữa luôn chứa hàm lượng chất phóng xạ cao; sản phẩm sữa đã chế biến như bơ an toàn hơn.

Nồng độ chất phóng xạ trong các cơ quan nội tạng của động vật thường cao hơn đáng kể so với các mô cơ. Các cơ quan nội tạng xếp theo thứ tự giảm dần của nồng độ Cs-137 là phổi > thận > gan > mỡ.

Kinh nghiệm Chernobyl cho thấy trong cùng một vùng bị ô nhiễm phóng xạ, cá bắt từ sông và suối có lượng chất phóng xạ thấp hơn đáng kể so với cá bắt từ hồ ao. Cá ăn cây cỏ có nồng độ chất phóng xạ thấp hơn ba đến bốn lần cá ăn thịt (cá tra, cá quả, v.v...). Cá ở tầng nước thấp của biển (cá diếc, cá hanh, v.v...) có nồng độ ô nhiễm cao hơn nhiều lần so với cá sống ở tầng nước trên cùng (cá bống, v.v...)
Việc tránh chất phóng xạ trong thức ăn là rất quan trọng và nếu không thể tránh khỏi thì phải thải loại chúng càng nhanh càng tốt. Ở trẻ nhỏ, nồng độ Cs-137 giảm một nửa sau 14 ngày; với trẻ 5 tuổi, nó là 21 ngày; với trẻ 10 tuổi, 49 ngày; với thanh thiếu niên, khoảng 90 ngày; và với một thanh niên nam, khoảng 100 ngày (Nesterenko, 1997).
Từ kinh nghiệm Chernobyl, thứ tự giảm dần của lượng Cs-137 trong thịt là: thịt gà > thịt bò > thịt cừu > thịt lợn. Con thịt già có nhiều chất phóng xạ hơn con trẻ vì tích lũy trong thời gian dài hơn. Xương động vật trẻ có nhiều Sr-90 hơn. Trứng: vỏ > lòng trắng > lòng đỏ.

Thit lợn và mỡ lợn không chỉ là an toàn nhất, chúng cũng đã được chứng tỏ là một lựa chọn rất tốt cho mục đích giải độc và chữa bệnh. Để biết thêm thông tin, xem bài 'I have high cholesterol, and I don't care' (Tôi có cholesterol cao, và tôi không quan tâm).

Các đặc tính sinh học của Cs-137 tương tự như của kali và Rubidium (rubiđi) ổn định, và Sr-90 và Pu thì tương tự như canxi. Những đặc tính này quyết định việc nó tập trung ở đâu trong cơ thể và việc sử dụng những chất ổn định có thể giúp giảm sự hấp thụ các chất phóng xạ.

Những thực phẩm giàu kali bao gồm khoai tây, củ cải, nho khô, mơ khô, chuối, chè, chanh, mận khô. Thực phẩm giàu canxi bao gồm bơ, trứng, hành lá, mùi tây, thìa là. Rau xanh, táo tàu, hạt hướng dương giàu sắt, và rubidium có trong nho đỏ.

Một chế độ ăn nhằm bảo vệ chống nhiễm xạ cần bao gồm rau hoa quả không nhiễm xạ, đặc biệt những loại giàu pectin như táo để thúc đẩy việc loại bỏ nhanh chóng các chất phóng xạ.

Ngủ trong Bóng tối Hoàn toàn

Sự sản xuất melatonin kém sẽ không chỉ khiến bạn dễ bị tổn hại bởi phóng xạ mà nó còn làm bạn dễ bị lão hóa nhanh, trầm cảm, tăng cân. Những người có nồng độ melatonin thấp có hệ thống miễn dịch kém hơn, nồng độ chất chống ôxy hóa thấp hơn và tế bào ung thư phát triển nhanh hơn, và họ cũng thường bị mất cân bằng vi khuẩn đường ruột. Ngủ trong bóng tối hoàn toàn là một cách tự nhiên để tăng cường sản xuất melatonin vào ban đêm. Căn phòng bạn ngủ phải tối hoàn toàn đến mức bạn không nhìn thấy chút gì. Nếu ánh sáng rọi vào dưới khe cửa, đặt một cái giẻ ở đó. Che đèn đỏ ở đồng hồ điện tử đi. Ngay cả lượng ánh sáng nhỏ nhất cũng có thể làm giảm lượng melatonin sản xuất ra, ngay cả khi bạn không nhìn thấy nó.

Linh tinh

Zeolite tự nhiên (được tìm thấy trong đá trầm tích từ núi lửa) là một loại khoáng chất có những tính chất rất tốt trực tiếp góp phần chiết dẫn Cs và Sr phóng xạ đồng thời cũng là một chất bổ sung tốt giúp giải độc kim loại nặng. Nó còn có tính diệt khuẩn và nó kích thích hệ thống miễn dịch. Nó đã được sử dụng thành công ở Chernobyl.

Germanium hữu cơ (Ge-132) bảo vệ các tế bào bị tiếp xúc với Cs-137 mà không làm ảnh hưởng đến sự phát triển tế bào. 25 đến 100mg mỗi ngày là liều thường dùng. (Chất tẩy rửa đường tiêu hóa ưa thích của tôi có germanium hữu cơ trong đó).

Than hoạt tính có khả năng hấp thụ và trung hòa các chất phóng xạ và một số chất độc. Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng 10g hay một thìa canh than có thể hấp thụ khoảng 3 đến 7g chất khác.

Có những bài báo rất hữu ích tập trung vào trị liệu i-ốt, đất sét, magiê và natri bicarbonate. Để biết thêm thông tin, xem:

Treatments for Nuclear Contamination

Iodine Treatments for Radiation Exposure

Greenmedinfo.com – Radioprotective

Tất cả những thông tin này sẽ giúp bạn không chỉ tự bảo vệ bản thân chống lại phơi nhiễm phóng xạ mãn tính mà nó còn giúp bạn lấy lại sức khỏe và cải thiện tâm trạng và tinh thần trong những thời điểm căng thẳng hiện nay.

Nguồn Tham khảo:
  • Bill Bodri. How to help support the body's healing after intense radioactive or radiation exposure. Top Shape Publishing, LLC. 2004.
  • Brown SL, Kolozsvary A, Liu J, Jenrow KA, Ryu S, Kim JH. Antioxidant diet supplementation starting 24 hours after exposure reduces radiation lethality. Radiat Res. 2010 Apr;173(4):462-8.
  • Burt Berkson, M.D., PhD. The Alpha Lipoic Acid Breakthrough, New York: Three Rivers Press, 1998.
  • James C. Lee, Paul A. Kinniry, Evguenia Arguiri, Matthew Serota, Stathis Kanterakis, Shampa Chatterjee, Charalambos C. Solomides, Prashanthi Javvadi, Constantinos Koumenis, Keith A. Cengel and Melpo Christofidou-Solomidou (2010) Dietary Curcumin Increases Antioxidant Defenses in Lung, Ameliorates Radiation-Induced Pulmonary Fibrosis, and Improves Survival in Mice. Radiation Research: May 2010, Vol. 173, No. 5, pp. 590-601.
  • Dan Jia, Nathan A. Koonce, Robert J. Griffin, Cassie Jackson and Peter M. Corry (2010) Prevention and Mitigation of Acute Death of Mice after Abdominal Irradiation by the Antioxidant N-Acetyl-cysteine (NAC). Radiation Research: May 2010, Vol. 173, No. 5, pp. 579-589.
  • Davis GD, Masilamoni JG, Arul V, Kumar MS, Baraneedharan U, Paul SF, Sakthivelu IV, Jesudason EP, Jayakumar R. Radioprotective effect of DL-alpha-lipoic acid on mice skin fibroblasts. Cell Biol Toxicol. 2009 Aug;25(4):331-40. Epub 2008 Jun 13.
  • Kashino G, Liu Y, Suzuki M, Masunaga S, Kinashi Y, Ono K, Tano K, Watanabe M.An alternative mechanism for radioprotection by dimethyl sulfoxide; possible facilitation of DNA double-strand break repair. J Radiat Res (Tokyo). 2010;51(6):733-40.
  • Mumpton FA. La roca magica: uses of natural zeolites in agriculture and industry.Proc Natl Acad Sci U S A. 1999 Mar 30;96(7):3463-70.
  • Nesterenko, A. B., Nesterenko, V. B. and Yablokov, A. V. (2009), Chapter II. Consequences of the Chernobyl Catastrophe for Public Health. Annals of the New York Academy of Sciences, 1181: 31 - 220. doi: 10.1111/j.1749-6632.2009.04822.x
  • Nesterenko, A. V., Nesterenko, V. B. and Yablokov, A. V. (2009), Chapter IV. Radiation Protection after the Chernobyl Catastrophe. Annals of the New York Academy of Sciences, 1181: 287 - 327. doi: 10.1111/j.1749-6632.2009.04836.x
  • Okunieff P, Swarts S, Keng P, Sun W, Wang W, Kim J, Yang S, Zhang H, Liu C, Williams JP, Huser AK, Zhang L. Antioxidants reduce consequences of radiation exposure. Adv Exp Med Biol. 2008;614:165-78. Review.
  • Parcell S. Sulfur in human nutrition and applications in medicine.Altern Med Rev. 2002 Feb;7(1):22-44.
  • Vijayalaxmi, Reiter RJ, Tan DX, Herman TS, Thomas CR Jr. Melatonin as a radioprotective agent: a review. Int J Radiat Oncol Biol Phys. 2004 Jul 1;59(3):639-53.
  • Chris Wambi, Jenine Sanzari, X. Steven Wan, Manunya Nuth, James Davis, Ying-Hui Ko, Carly M. Sayers, Matthew Baran, Jeffrey H. Ware and Ann R. Kennedy (2008) Dietary Antioxidants Protect Hematopoietic Cells and Improve Animal Survival after Total-Body Irradiation. Radiation Research: April 2008, Vol. 169, No. 4, pp. 384-396.
  • Weiss JF, Landauer MR. Protection against ionizing radiation by antioxidant nutrients and phytochemicals.. Toxicology. 2003 Jul 15;189(1-2):1-20.
  • T. S. Wiley, Bent Formby. Lights Out: Sleep, Sugar, and Survival. Atria (2001).
  • Yablokov, A. V., Nesterenko, V. B. and Nesterenko, A. V. (2009), Chapter III. Consequences of the Chernobyl Catastrophe for the Environment. Annals of the New York Academy of Sciences, 1181: 221 - 286. doi: 10.1111/j.1749-6632.2009.04830.x
Về tác giả:
Gabriela Segura, M.D., là một bác sĩ phẫu thuật tim mạch với rất nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu các phương pháp trị liệu không chính thống. Cô làm việc cho Fellowship of the Cosmic Mind (Hiệp hội Tâm linh Vũ trụ) và là người đồng sáng lập chương trình giảm stress và phục hồi sức khỏe Éiriú Eolas.


1 nhận xét:

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.