Tác giả: Lierre Keith
- Chương 1: Tại sao có cuốn sách này?
- Chương 4 phần 1: Ăn chay vì dinh dưỡng
- Chương 4 phần 2
- Chương 4 phần 3
- Lá thư sữa: Một thông điệp gửi đến các bệnh nhân của tôi
- Mì chính - Vị ngon giết người
- Giải độc Hay là Chết: Những Cách Trị liệu Tự nhiên để Đối phó với Bụi Phóng xạ từ Vụ Tan chảy Hạt nhân Fukushima
- Gluten: Cái bạn không biết có thể giết bạn
- Cơ thể nguyên thủy, tâm trí nguyên thủy (8 phần)
- Vài mẹo nhỏ cho những ai bắt đầu chế độ ăn ít carbohydrat (2 phần)
- Mối nguy hại của vắc-xin (2 bài)
Chương 4: Ăn chay vì dinh dưỡng
Bắt đầu với châu
Phi bảy triệu năm trước đây, bởi vì đó là nơi con
người bắt đầu. Khí hậu bắt đầu chuyển từ ẩm ướt
sang khô hanh. Các cây to nhường chỗ cho cỏ, và thảo
nguyên bắt đầu phủ đầy khắp thế giới. Được nuôi
dưỡng bởi cỏ là những động vật ăn cỏ lớn. Hai
mươi lăm triệu năm trước, trong sự đa dạng của quá
trình tiến hóa, một số cây tìm cách phát triển từ gốc
thay vì từ ngọn. Động vật ăn lá sẽ không giết chết
những cây này; ngược lại là đằng khác. Nó giúp cây
phát triển bằng cách kích thích rễ phát triển. Tất cả
cây cối đều cần nitơ và các chất dinh dưỡng đã được
tiêu hóa, và động vật ăn cỏ có thể cung cấp những
thứ đó cho cỏ trong lúc chúng ăn cỏ. Đấy là lý do tại
sao, không giống như những cây khác, cỏ không chứa hóa
chất độc nào, cũng như không có những cơ chế tự vệ
cơ học như gai hay cành cứng để ngăn cản động vật.
Cỏ muốn bị ăn. Chính cỏ là thứ tạo ra bò. So với
cỏ, sự thuần hóa của con người chỉ có một ảnh
hưởng rất nhỏ lên hệ gen của bò, và bò cho lại con
người gen dung nạp lactose.
Tổ tiên của chúng ta
sống trên cây, cho đến khi cây bắt đầu biến đi. Chúng
ta có hai lợi thế về mặt tiến hóa để giúp chúng ta
vượt qua khó khăn này: ngón tay cái tách ra và hệ thống
tiêu hóa ăn tạp. Chúng ta có khả năng thao tác công cụ
và chúng ta có một cơ thể được trang bị cả bản năng
và hệ thống tiêu hóa để xử lý một loạt các loại
thực phẩm khác nhau. Một số động vật chỉ ăn một
loại thực phẩm: koala chỉ ăn lá bạch đàn, và ong bắp
cày chỉ ăn trên cây vả. Ăn chỉ một loại thực phẩm
là một canh bạc; nếu nguồn thức ăn của bạn mất đi,
bạn cũng biến đi cùng nó. Nhưng bộ não, cơ quan đòi
hỏi rất nhiều năng lượng, ở động vật ăn một loại
thực phẩm không cần lớn lắm, và năng lượng dư ra có
thể dùng cho các hoạt động khác.
Không kể sô-cô-la, con người không phải là động vật chỉ ăn một loại thực phẩm. Trước khi chúng ta trở thành người, khi chúng ta còn sống trên cây, chúng ta ăn chủ yếu hoa quả, lá cây và côn trùng. Nhưng từ thời điểm chúng ta đứng thẳng, chúng ta ăn chủ yếu động vật ăn cỏ lớn. Bốn triệu năm trước, người vượn phương Nam, tổ tiên của chúng ta, đã ăn thịt.
Đã có lúc người ta
tin rằng người vượn phương nam ăn hoa quả. Điểm khác
biệt giữa người vượn phương nam và người hiện đại
được cho là khả năng ăn thịt. Nhưng những chiếc răng
của bốn bộ xương ba triệu năm tuổi trong một hang động
ở Nam Phi kể lại một câu chuyện khác. Các nhà nhân
chủng học Matt Sponheimer và Julia Lee-Thorp tìm thấy
carbon-13 trong lớp men răng của những bộ xương này.
Carbon-13 là một đồng vị ổn định có ở hai nơi: cỏ
và cơ thể những động vật ăn cỏ. Những chiếc răng
ấy không có các vết xước gây ra bởi việc nhai cỏ.
Người vượn phương nam ăn những động vật ăn cỏ,
những con thú nhai lại to lớn sống trên các thảo nguyên.
Các công cụ bằng đá
được tìm thấy bên cạnh những bộ xương của những
con thú đã tuyệt chủng từ lâu, chôn sâu dưới đất
trong suốt 2,6 triệu năm. Những công cụ đá và những bộ
xương đó đã đợi để kể câu chuyện của chúng, câu
chuyện về chúng ta. Một số xương có những vết răng
phủ lên bởi những vết cắt bằng công cụ: một con thú
ăn thịt đã giết con mồi và tiếp theo là người đến
mót phần còn lại. Một số xương khác lại ngược lại:
vết cắt bằng công cụ, rồi đến những vết răng sắc,
nói lên rằng con người với vũ khí đến trước, sau đó
mới là con thú với răng. Chúng ta đến từ một gia phả
dài của những người thợ săn: 150.000 thế hệ.
Đó là những gì dòng
giống của chúng ta đã học, và trong quá trình học tập
đó, chúng ta trở thành con người. Chúng ta làm ra công cụ
để lấy những gì cỏ cung cấp: những con thú ăn cỏ
lớn, chứa đầy chất dinh dưỡng, nhiều chất dinh dưỡng
hơn là chúng ta có thể hy vọng tìm thấy ở hoa quả và
lá cây. Kết quả là bạn ngồi đây đọc những dòng
này. Bộ não của chúng ta lớn gấp hai lần bộ não của
một động vật linh trưởng cùng kích cỡ như chúng ta.
Trong khi đó ống tiêu hóa của chúng ta nhỏ hơn 60%. Cơ
thể chúng ta được xây dựng nên từ những thực phẩm
giàu chất dinh dưỡng. Hai nhà nhân chủng học L. Aiello và
P. Wheeler đặt tên cho ý tưởng này là “Giả thuyết mô
đắt giá”. Bộ não của người vượn phương nam phát
triển lên kích cỡ của người hiện đại là vì thịt
cho phép hệ thống tiêu hóa của chúng ta thu nhỏ lại, do
đó giải phóng năng lượng cho bộ não.
Hay so sánh con người
với gorilla. Gorilla chỉ ăn sản phẩm thực vật, và chúng
có bộ não nhỏ nhất và hệ tiêu hóa lớn nhất trong tất
cả các động vật linh trưởng. Chúng ta thì ngược lại.
Và bộ não, di sản thực sự của tổ tiên chúng ta, cần
được cho ăn.
Những người ăn chay
có câu chuyện của riêng họ, một câu chuyện rất khác
so với những gì được kể lại trong những bộ xương,
các công cụ, răng và xương sọ. “Sức mạnh thực sự
và vật liệu để tạo ra sức mạnh đó đến từ những
rau lá xanh, nơi có chứa các amino acid,” một chuyên gia
ăn chay viết. “Nếu chúng ta nhìn vào gorilla, ngựa vằn,
hươu cao cổ, hà mã, tê giác hay voi, chúng ta sẽ thấy
chúng xây dựng hệ thống cơ khổng lồ của chúng từ lá
cây xanh.” Thực ra, nếu chúng ta thực sự nhìn vào
gorilla và những con thú khác trong danh sách trên, cái chúng
ta thấy sẽ là những động vật có chứa vi khuẩn lên
men cần thiết để tiêu hóa cellulose. Con người chúng ta
không có những vi khuẩn như vậy. Ông này viết sách về
dinh dưỡng mà không biết chút gì về cách con người
thực sự tiêu hóa thế nào.
Đối với hầu hết
chúng ta, cái cơ thể nằm dưới lớp da, trong bộ xương
sườn của chúng ta là một thế giới không được biết
tới. Nhưng nếu chúng ta đặt sang một bên câu chuyện mà
chúng ta vẫn khao khát hướng tới, và thực sự lắng
nghe, cơ thể chúng ta sẽ không nói dối. Ở đây là lịch
sử dài của cây cối, thảo nguyên, cỏ và những đàn
thú ăn cỏ, được kể lại trong các mô cơ của con
người. (Xem bảng so sánh dưới đây.)
Con người
|
Chó
|
Cừu
|
|
Răng
|
|||
Răng sữa
|
Cả hai hàm
|
Cả hai hàm
|
Chỉ hàm dưới
|
Răng hàm
|
Có lằn gợn
|
Có lằn gợn
|
Phẳng
|
Răng nanh
|
Nhỏ
|
To
|
Không có
|
Hàm
|
|||
Phương chuyển động
|
Thẳng đứng
|
Thẳng đứng
|
Xoay tròn
|
Chức năng
|
Xé, cắn nát
|
Xé, cắn nát
|
Nghiền vụn
|
Sự nhai
|
Không quan trọng
|
Không quan trọng
|
Chức năng sống còn
|
Nhai lại
|
Không bao giờ
|
Không bao giờ
|
Chức năng sống còn
|
Dạ dày
|
|||
Dung tích
|
2 lít
|
2 lít
|
32 lít
|
Thời gian tiêu hết
|
3 giờ
|
3 giờ
|
Không bao giờ trống
|
Nghỉ giữa các đợt tiêu hóa
|
Có
|
Có
|
Không
|
Có mặt vi khuẩn
|
Không
|
Không
|
Có, cực kỳ quan trọng
|
Có mặt động vật nguyên sinh
|
Không
|
Không
|
Có, cực kỳ quan trọng
|
Acid dạ dày
|
Mạnh
|
Mạnh
|
Yếu
|
Tỷ lệ tiêu hóa cellulose
|
Không
|
Không
|
70%, cực kỳ quan trọng
|
Hoạt động tiêu hóa
|
Yếu
|
Yếu
|
Chức năng sống còn
|
Hấp thụ thức ăn vào cơ thể
|
Không
|
Không
|
Chức năng sống còn
|
Túi mật
|
|||
Kích cỡ
|
Phát triển mạnh
|
Phát triển mạnh
|
Thường không có
|
Hoạt động
|
Mạnh
|
Mạnh
|
Yếu hoặc không có
|
Hoạt động tiêu hóa
|
|||
Từ tuyến tụy
|
Duy nhất
|
Duy nhất
|
Một phần
|
Từ vi khuẩn
|
Không
|
Không
|
Một phần
|
Từ động vật
nguyên sinh
|
Không
|
Không
|
Một phần
|
Tỷ lệ tiêu hóa
|
100%
|
100%
|
50% hay ít hơn
|
Đại tràng và manh tràng
|
|||
Kích cỡ đại
tràng
|
Ngắn – nhỏ
|
Ngắn – nhỏ
|
Dài - to lớn
|
Kích cỡ manh tràng
|
Rất nhỏ
|
Rất nhỏ
|
Dài – to lớn
|
Chức năng manh
tràng
|
Không
|
Không
|
Chức năng sống còn
|
Ruột thừa
|
Vết tích còn lại
|
Không có
|
Chính là manh tràng
|
Ruột thẳng
|
Nhỏ
|
Nhỏ
|
Lớn
|
Hoạt động tiêu
hóa
|
Không
|
Không
|
Chức năng sống còn
|
Tiêu hóa cellulose
|
Không
|
Không
|
30% - cực kỳ quan trọng
|
Vi khuẩn
|
Gây thối rữa
|
Gây thối rữa
|
Gây lên men
|
Hấp thụ thức ăn
vào cơ thể
|
Không
|
Không
|
Chức năng sống còn
|
Lượng phân
|
Nhỏ – cứng
|
Nhỏ – cứng
|
Rất nhiều
|
Thức ăn không tiêu
trong phân
|
Hiếm gặp
|
Hiếm gặp
|
Lượng lớn
|
Thói quen ăn
|
|||
Tần suất
|
Thỉnh thoảng
|
Thỉnh thoảng
|
Liên tục
|
Sống sót mà không có
|
|||
Dạ dày
|
Có thể
|
Có thể
|
Không thể
|
Đại tràng và manh
tràng
|
Có thể
|
Có thể
|
Không thể
|
Vi sinh vật
|
Có thể
|
Có thể
|
Không thể
|
Thức ăn từ thực
vật
|
Có thể
|
Có thể
|
Không thể
|
Protein động vật
|
Không thể
|
Không thể
|
Có thể
|
Tỷ lệ giữa chiều dài cơ thể và:
|
|||
Toàn bộ hệ thống
tiêu hóa
|
1:7
|
1:5
|
1:27
|
Ruột non
|
1:6
|
1:4
|
1:25
|
Có hai sự khác nhau
nhỏ giữa người và chó. Một là những răng nanh của
chúng ta ngắn hơn. Các nhà nghiên cứu đều đồng thuận
rằng răng nanh của chúng ta lúc trước dài hơn bây giờ,
nhưng chúng ngắn đi do chúng ta dùng lửa và công cụ.
Điểm khác nhau còn lại là ruột của chúng ta dài hơn,
mặc dù là còn xa mới dài bằng ruột cừu. Đây là di
tích còn lại của lịch sử xa xưa khi chúng ta còn là
linh trưởng ăn hoa quả trên cây. Và nó là thứ xếp
chúng ta vào phân loại ăn tạp. Nhưng bảng so sánh ở
trên đã làm rõ điều mà những gắn bó về lý tưởng
và tình cảm – và kim tự tháp thực phẩm của FDA (Cục
Quản lý Dược phẩm Mỹ) – đã che khuất: Chúng ta được
thiết kế để ăn thịt, để tiêu thụ lượng protein và
chất béo trong thịt. Tiến sĩ Michael và Mary Dan Eades viết,
“Trong giới nhân chủng học, tuyệt đối không còn tranh
cãi gì về điều đó – mọi nhà nghiên cứu có uy tín
đều sẽ khẳng định rằng chúng ta khi trước là chuyên
đi săn... Lịch sử ăn thịt của chúng ta... là một thực
tế không thể chối cãi.”
Còn có một phiên bản
khác của câu chuyện, một phiên bản viết bởi con người,
chứ không phải bởi những bộ răng và xương. Phiên bản
này nằm đợi 40.000 năm trong các hang động trải từ Nam
Phi dọc suốt lục địa Á – Âu, và nó được kể bằng
hình ảnh. Một số chỉ là những phác họa bao gồm những
nét cần thiết nhất. Những cái khác chứa đầy chi tiết
và màu sắc sống động, sắp xếp khiến cho cả những
đường cong của vách hang cũng góp phần tạo ra chuyển
động và chiều sâu. “Những con bò rừng này,” một
người quan sát viết lại, “dường như sắp nhảy ra từ
góc hang vậy.” Hay như là Pablo Picasso nói khi xem tranh
trong hang động ở Lascaux, “Chúng ta chẳng phát minh được
gì trong 12 ngàn năm qua.” Đúng vậy, chúng ta chẳng phát
minh được gì mới, thậm chí từ 40 ngàn năm trước.
Những đàn bò, đàn ngựa hoang đã phát minh ra chúng ta từ
cơ thể của chúng. Từ những thớ thịt đầy chất dinh
dưỡng của chúng sinh ra bộ não con người.
Một số tác giả muốn
tranh luận rằng săn bắn là hành động đầu tiên của
sự thống trị, đàn áp. Nhưng sự sống chỉ có thể có
được thông qua cái chết. Mọi điều đều phụ thuộc
vào sự giết chóc, trực tiếp hoặc gián tiếp: hoặc bạn
làm việc đó, hoặc bạn đợi ai đó làm việc đó đối
với bạn. Mọi động vật từ con bọ ngựa đến con gấu
đều đi săn; và bạn đã bao giờ nhìn thấy cây sắn dây
giết một cây khác chưa? Thế nhưng không một ai trong số
chúng, động vật hay thực vật, xây dựng nên các trại
tập trung hay trại chăn nuôi tập trung theo lối công
nghiệp. Và mặc dù loài người cũng phải tham gia vào sự
giết chóc, rất nhiều nền văn hóa trên thế giới được
xây dựng nên từ sự có đi có lại, tính khiêm nhường
và lòng tốt. Nếu thông qua việc kiếm thức ăn, giành sự
sống, chúng ta phải đi vào con đường của bạo tàn và
diệt chủng thì vũ trụ này là là một nơi méo mó, bệnh
hoạn và tôi thoát ra ngoài. Nhưng tôi không tin vào điều
đó. Đó không phải là trải nghiệm của tôi về thực
phẩm, về sự giết chóc, về sự tham gia và sự sống.
Khi tôi nhìn thấy những bức tranh của những người cổ
đại, tôi không thấy sự tuyên dương tính hung bạo, hay
một thẩm mỹ mang tính bạo tàn. Không, tôi không ở đó
khi những bức tranh ấy được tạo ra, và tôi không phỏng
vấn những người họa sĩ. Nhưng tôi nhận ra cái đẹp
khi tôi nhìn thấy nó.
Và không có chút nghi
ngờ gì về thực đơn của những người nghệ sĩ ấy.
Bên cạnh những bức vẽ, họ còn để lại vũ khí, bao
gồm cả những lưỡi dao để giết và mổ thịt. Những
công cụ ấy vô cùng tinh tế trong độ chính xác của
chúng – và những cái làm bằng gỗ là những vật bằng
gỗ cổ xưa nhất từng được tìm thấy.
Các nhà khảo cổ đã
xác định độ tuổi của một mũi giáo dài gần 40 cm làm
từ gỗ thủy tùng tìm thấy vào năm 1911 ở Clacton, Anh là
khoảng từ 360.000 đến 420.000 năm. Một cây giáo khác,
cũng làm bằng gỗ thủy tùng, dài gần 2,4 m và 120.000 năm
tuổi. Nó được tìm thấy giữa những xương sườn của
một con voi đã tuyệt chủng tại Lehringen, Đức vào năm
1948. Những người đào mỏ ở một mỏ than gần
Schoninger, Đức tìm thấy ba cây giáo gỗ vân sam có hình
giống như những ngọn lao hiện nay – cây dài nhất trong
số chúng dài hơn 2,1 m. Cả ba được xác định là từ
300.000 đến 400.000 tuổi.
Và tổ tiên của chúng
ta rất biết cách sử dụng những công cụ của họ.
Fairweather Eden là câu chuyện của một công trình khai quật
khảo cổ học ở Boxgrove, Anh, một vùng đất tươi tốt
chứa đầy tê giác, ngựa hoang, voi mamút và gấu hang.
Những con thú này to khỏe và nguy hiểm: một con gấu hang
có những chiếc răng dài đến 8 cm và “hàm răng đủ
khỏe để cắn đứt một người làm đôi.” Nếu tổ
tiên chúng ta có thể đơn giản chỉ ăn hoa quả để
sống, chẳng lẽ họ lại không chọn cách đó? Nhưng cái
đói đã cho họ lòng dũng cảm, đủ để họ trở nên
thiện nghệ trong nghệ thuật săn bắn. Những nhà khảo
cổ học ở Boxgrove đã mang những công cụ bằng đá mà
họ tìm thấy và một con hươu vừa bị giết đến một
cửa hàng thịt ở địa phương và yêu cầu họ mổ nó
với những công cụ ấy. Năm trăm ngàn năm sau, những vết
cắt hiện đại vẫn giống hệt những vết cắt cổ đại.
Thực sự chúng ta chẳng phát minh điều gì mới.
* * * * * *
Ngoại trừ nông
nghiệp. Và cùng với nông nghiệp là những “căn bệnh
của nền văn minh”. Lưu ý rằng không ai nói về “căn
bệnh của những người săn bắn hái lượm”, bởi vì
họ hầu như không có bệnh. Những người nông dân, những
người đã hủy hoại cơ thể của họ cùng với hành
tinh này, thì không như vậy. Danh sách bệnh tật bao gồm
“thấp khớp, tiểu đường, cao huyết áp, bệnh tim, đột
quỵ, trầm cảm, tâm thần phân liệt, và ung thư,” cùng
với răng khấp khểnh, thị lực kém, và một loạt các
bệnh tự miễn và sưng tấy.
Những căn bệnh này
có ở khắp nơi trong thế giới văn minh, và “cực kỳ
hiếm gặp” ở những người săn bắn hái lượm. Tiến
sĩ Loren Cordain viết như sau trong bài viết “Ngũ cốc:
Con dao hai lưỡi của nhân loại”:
Dùng
hạt ngũ cốc như một thực phẩm chủ yếu là một nét
bổ sung tương đối gần đây trong chế độ ăn của con
người và là một thứ khác xa so với những thực phẩm
mà chúng ta đã tiến hóa để thích nghi với. Sự bất
đồng giữa nhu cầu dinh dưỡng quyết định bởi di
truyền của con người và chế độ ăn hiện tại của
chúng ta là nguyên nhân của nhiều căn bệnh thoái hóa đè
nặng lên con người trong xã hội công nghiệp... Có lượng
bằng chứng đáng kể cho thấy rằng ngũ cốc không phải
là thực phẩm tối ưu cho con người và rằng cấu trúc
di truyền và sinh lý của chúng ta chưa thích nghi được
hoàn toàn với lượng ngũ cốc tiêu thụ cao.
Những bằng chứng
khảo cổ học là không thể chối cãi, cũng như minh chứng
sống của 84 bộ lạc săn bắn hái lượm cuối cùng còn
lại. Họ ăn một chế độ ăn mà tất cả con người đã
tiến hóa để thích nghi với: “thịt thú, chim, cá, rau,
rễ củ và lá của nhiều loại cây.” Chúng ta đang ăn
những thực phẩm thậm chí chỉ vài ngàn năm trước còn
chưa tồn tại: những cây ngắn vụ, đặc biệt là ngũ
cốc, và những sản phẩm chế biến công nghiệp của
chúng như tinh bột, đường, và dầu thực vật. Như
Cordain chỉ ra: “Hơn 70% lượng calo của chúng ta đến từ
những thực phẩm mà tổ tiên thời đồ đá cũ của
chúng ta rất hiếm khi hoặc không bao giờ ăn.” Cơ thể
của chính chúng ta, cùng với những căn bệnh thoái hóa
của chúng, là tất cả bằng chứng chúng ta cần để
thấy rằng chế độ ăn ấy là không hợp tự nhiên.
Tóm lại, đây là
những gì chúng ta biết: răng của chúng ta được thiết
kế cho thịt chứ không phải cellulose, cả men răng và
những bức vẽ của tổ tiên chúng ta nói vậy; dạ dày
của chúng ta chỉ có một chiếc và tiết ra acid; các công
cụ giết mổ được tìm thấy bên cạnh những chiếc
xương đã bị xẻ thịt; và cuối cùng, những bộ tộc
săn bắn hái lượm còn sót lại vẫn săn bắn.
* * * * * *
Một phiên bản của
huyền thoại ăn chay cho rằng chúng ta là những người
“hái lượm săn bắn”, được nuôi dưỡng từ những
sản phẩm thực vật do phụ nữ thu thập nhiều hơn là
từ thịt săn bắn được bởi đàn ông. Phiên bản này
lan truyền từ một tác giả, một ông R. B. Lee, người
kết luận rằng những người săn bắn hái lượm nhận
65% lượng calo của họ từ thực vật và chỉ 35% từ
động vật. Con số 65:35 này được lặp đi lặp lại
không ngừng trong rất nhiều lĩnh vực, nhưng nó hoàn toàn
sai sự thật. Tiến sĩ Cordain đã chạy một mô hình máy
tính với những thực phẩm mà những người săn bắn hái
lượm có thể có được. Để thỏa mãn chỉ riêng nhu
cầu calo, tỷ lệ 65:35 đòi hỏi một người phải ăn 5,4
kg sản phẩm thực vật mỗi ngày. “Một kịch bản ít
có khả năng xảy ra, nói một cách nhẹ nhàng là như
vậy,” tiến sĩ Eades nhận xét. Lee lấy những dữ liệu
của ông ta từ cuốn “Ethnographic Atlas” (Dân tộc học
toàn tập) của Murdock, một tập hợp các số liệu thống
kê từ 862 nền văn hóa / xã hội khác nhau. Trong số 181
xã hội săn bắn hái lượm, Lee chỉ lấy số liệu từ
58. Ông ta không kể cá trong tính toán của mình, và ông
cho các loại sò, ốc hến vào cột “hái lượm”. Hãy
nói cho tôi biết, đã bao giờ bạn có nguy cơ nhầm lẫn
một con ngao với một quả dâu chưa? Cuốn Ethnographic
Atlas cũng phân loại các động vật nhỏ trên cạn – côn
trùng, ấu trùng, bò sát, động vật có vú nhỏ – là
thực vật bằng cách mô tả việc thu hoạch chúng là hái
lượm. Cordain đã làm hết sức để điều chỉnh lại
các con số, phân loại lại cá và tôm vào cột săn bắn,
và bao gồm dữ liệu từ tất cả các bộ tộc. Kết luận
của ông hoàn toàn đảo ngược con số của Lee. Ông cho
rằng tỷ lệ thực sự là khoảng 65% động vật và 35%
thực vật. Đấy là vẫn còn bao gồm sự thiên vị từ
cuốn Ethnographic Atlas trong việc phân loại động vật nhỏ
trên cạn trong cột hái lượm.
Huyền thoại đầu
tiên của những người ăn chay vì dinh dưỡng – rằng
chúng ta không được thiết kế để ăn thịt – là một
câu chuyện cổ tích khác với đầy những quả táo không
ăn được. Tôi cố nhớ lại những gì tôi tin khi tôi còn
ăn chay. Đã có một thời đại vàng son như trong truyền
thuyết, rất lâu trước kia, khi chúng ta sống hài hòa với
thế giới … và … ăn cái gì? Những bức tranh thời
tiền sử về con người săn bắn khiến tôi bối rối và
đẩy tôi và thế phòng thủ, nhưng dù sao thì tôi cũng
không biết chúng có từ bao giờ. Có khi tất cả những
chuyện săn bắn đó xảy ra trước nền văn hóa ăn chay
hòa bình? Hoặc có khi nó xảy ra sau sự suy sụp của
những người ăn chay hòa bình …?
Chúng ta đã ăn ngũ
cốc, tôi quyết định, và rất nhiều những loại rau lá
không tên khác. Không cần để ý đến việc ngũ cốc
“thậm chí không tồn tại trong phần lớn lịch sử loài
người.” Hay việc chúng không mọc được quá một tháng
mỗi năm trong thời kỳ băng hà. Hay việc những công nghệ
cần thiết để làm chúng trở nên ăn được không được
phát minh cho đến khi nông nghiệp ra đời. Ngũ cốc phải
được xay, ngâm, và quan trọng hơn cả là nấu. Bạn
không thể ăn lúa mì sống được. Cứ thử nếu bạn
không tin tôi, nhưng bạn không cần phải làm vậy: bạn
sẽ bị viêm dạ dày. Điều này đúng với ngũ cốc, đậu
và khoai tây. Chúng có chứa chất độc, gọi một cách
lịch sự là chất phản dinh dưỡng để ngăn chặn động
vật (chúng ta) ăn chúng. Mặc dù cây cối không gào thét
vào chạy trốn được không có nghĩa là chúng muốn bị
ăn. Và mặc dù chúng không có răng hay móng không có nghĩa
là chúng không chống trả. Nhiệt là thứ làm cho chúng
trở nên ăn được bằng cách vô hiệu hóa một số chất
phản dinh dưỡng. Xay, ngâm, rửa và làm nảy mầm cũng có
tác dụng tương tự. Nhưng hãy hiểu cây cối đã cố
gắng đến mức nào để tự bảo vệ chúng và bảo vệ
thế hệ tương lai quý báu của chúng, và những gì chúng
ta đã tự làm với bản thân chúng ta thông qua việc ăn
chúng.
Trước tiên, cây cối
sản xuất các chất ức chế enzyme, có tác dụng như
thuốc trừ sâu chống lại côn trùng và các động vật
khác, bao gồm cả chúng ta. Hệ thống tiêu hóa của chúng
ta sử dụng nhiều loại enzyme để phân tách và hấp thụ
thức ăn. Khi thức ăn là các loại hạt (đậu, ngũ cốc,
khoai tây), những hạt đó chống trả bằng cách vô hiệu
hóa các enzyme đó. Loại enzyme hay bị ngũ cốc ức chế
nhất là protease, enzyme tiêu hóa protein. Các protease bao gồm
enzyme pepsin trong dạ dày và enzyme trypsin và chymotrypsin
trong ruột non. Một số chất khác cản trở amylase, enzyme
tiêu hóa tinh bột. Do vậy chúng được gọi là chất ức
chế amylase.
Đậu, ngũ cốc và
khoai tây còn sử dụng lectin. Đó là những protein có rất
nhiều chức năng trong cả thực vật và động vật, mặc
dù chức năng chính xác của nhiều loại lectin vẫn chưa
được biết. Để hiểu được những tổn hại mà các
chất này có thể gây ra với cơ thể con người, trước
tiên bạn cần một bài học cơ bản về hệ thống tiêu
hóa của người.
Hệ thống tiêu hóa
của chúng ta có một nhiệm vụ khó khăn: nó phải phân
loại một lượng khổng lồ những chất ngoại lai –
những thứ mà chúng ta nuốt vào – và quyết định cái
nào là chất dinh dưỡng và cái nào là mối nguy hiểm.
Những thứ được cho là dinh dưỡng phải được phân
tách thành những thành phần nhỏ nhất có thể để có
thể được hấp thụ. Công việc này tốn nhiều công sức
đến mức bộ ruột của bạn dài 6,7 mét. Để tăng khả
năng làm việc, thành ruột được gấp lại thành những
nếp rất khít gọi là lông nhung. “Trên thực tế,”
tiến sĩ Eades giải thích, “những nếp gấp này khít với
nhau đến mức nếu bạn trải phẳng chúng ra, một cm
vuông niêm mạc ruột sẽ phủ kín một sân tennis – một
tác phẩm origami đáng kinh ngạc.
Siêu lông nhung là
những nếp gấp còn nhỏ hơn nữa. Chúng cấu thành những
khu vực nơi các enzyme tiêu hóa phân tách protein thành các
amino acid và tinh bột thành đường. Một khi thức ăn đã
được phân tách hoàn toàn, lớp niêm mạc ruột cho những
chất dinh dưỡng ấy đi vào mạch máu thông qua những cấu
trúc gọi là mối nối kín. Đây là những khớp nối đặc
biệt giữa các tế bào niêm mạc ruột. Chúng ta cần được
bảo vệ khỏi đủ loại chất ô nhiễm và chất độc
đến từ thế giới bên ngoài, lọt qua răng và dạ dày
của chúng ta. Những mối nối kín này là nơi các chất
được hấp thụ hoặc bị loại bỏ. Cái nào quá to, quá
bặm trợn hay quá lạ lẫm đều không thể đi qua các mối
nối kín. Ngược lại, tất cả những thứ nhỏ và đơn
giản – nước, ion, amino acid và đường – đều được
cho qua.
Đó là một cơ chế
cơ học của ruột để giữ cho chúng ta được an toàn.
Một cơ chế nữa là những cơn co thắt nhịp nhàng để
đẩy thức ăn di chuyển qua ruột. Sự chuyển động liên
tục này ngăn chặn không cho các vi khuẩn không thân thiện
thiết lập nơi cư ngụ. Và các tế bào niêm mạc ruột
liên tục bong ra, do đó bất cứ vi khuẩn nào bám được
vào cũng bị trôi đi.
Nếu những cơ chế cơ
học này thất bại, ruột chúng ta còn có thể gọi ra cơ
chế miễn dịch, và đó là một cơ chế miễn dịch rất
đặc biệt. Phản ứng miễn dịch thông thường ở những
nơi khác trong cơ thể bao gồm sự sưng tấy. Ở ruột thì
không như vậy, và nếu bạn có thể hình dung một diện
tích lớn bằng một sân tennis gấp lại còn một cm vuông,
bạn sẽ hiểu tại sao. Không có chỗ cho sự sưng tấy
nếu như vùng đó vẫn muốn làm nhiệm vụ hấp thụ chất
dinh dưỡng. Sự sưng tấy sẽ làm yếu các mối nối kín,
khiến các chất nguy hiểm có thể lẻn vào cơ thể chúng
ta. Thay vào đó, ruột có đội phản ứng nhanh riêng của
nó. Một số tế bào đặc biệt sẽ bắt giữ những kẻ
xâm nhập. Một số tế bào khác, tế bào bạch huyết, sẽ
bắt đầu sản xuất các chất độc để giết những kẻ
xâm lược. “Và không chỉ có vậy,” tiến sĩ Eades
viết, “các tế bào bạch huyết có vũ trang sẽ nhớ mãi
mãi bộ dạng của những kẻ xâm lược để nếu một
tên nào khác còn dám đến nữa, phản ứng miễn dịch sẽ
là nhanh chóng và triệt để.”
* * * * * *
Ăn ngũ cốc gây ra ba
vấn đề. Đầu tiên, một chế độ ăn dựa vào ngũ cốc
là chủ yếu sẽ chứa quá nhiều tinh bột và đường,
gây quá tải cho ruột non. Đến lượt nó, ruột non sẽ
chuyển một phần tinh bột chưa tiêu hóa xuống đại
tràng. Lượng đường này tạo ra một bữa tiệc cho vi
khuẩn, và số vi khuẩn bình thường trong đại tràng sẽ
phát triển theo cấp số nhân. Sự lên men quá độ này sẽ
tràn lại vào ruột non, gây ra phản ứng sưng tấy, làm
“mòn lớp siêu lông nhung, suy yếu sự tiêu hóa và hấp
thụ bình thường và làm nhiều thức ăn chưa tiêu hóa
lọt xuống đại tràng hơn nữa, tạo ra một vòng luẩn
quẩn đáng sợ.” Điều quan trọng nhất là các mối nối
kín bị tổn hại, để cho các chất như lectin chui qua và
đi vào máu. Bản thân các lectin cũng có thể bám lên
thành ruột, thay đổi tính thấm và chức năng của nó.
Vậy lectin là gì?
Krispin
Sullivan giải thích :
Hãy
nghĩ về mỗi lectin như một loại protein mang một cái
chìa khóa phù hợp với một loại khóa. Cái khóa ấy là
một loại carbohydrate... Nếu một lectin với cái chìa khóa
phù hợp tiếp xúc với những cái “khóa” ấy ở trên
thành ruột hay động mạch hay một cơ quan nào đó trong
cơ thể, nó sẽ “mở khóa”. Có nghĩa là nó phá vỡ
màng tế bào, gây tổn hại cho tế bào và có thể gây ra
một loạt sự kiện miễn dịch và tự miễn dẫn đến
cái chết của tế bào.
Lectin
không dễ dàng bị phân hủy: Một khi chúng được ăn vào
cơ thể, cả acid hydrochloric trong dạ dày lẫn các enzyme
tiêu hóa đều không tiêu diệt được chúng. Trên thực
tế, “WGA, một loại lectin trong lúa mì, có thể chịu
đựng được nhiệt độ cao và quá trình tiêu hóa trong
cả người và chuột, và đã được tìm thấy nguyên vẹn
và giữ nguyên đặc tính sinh học trong phân người.”
Hơn 60% các loại lectin giữ nguyên đặc tính sinh học khi
đi qua hệ thống tiêu hóa. Vì vậy, sự thiệt hại mà
chúng có thể gây ra là vô cùng to lớn.
Khi
một bữa ăn đi qua dạ dày và vào ruột non, lẽ ra mọi
protein chúng ta ăn đều phải đã được phân tách thành
amino acid. Điều này giúp ngăn chặn các chuỗi protein lớn
khỏi đi qua thành ruột non vào mạch máu. Những chuỗi
nhỏ hơn thỉnh thoảng vẫn chui qua được, nhưng số
lượng của chúng không đủ để gây ra phản ứng miễn
dịch. Tuy nhiên, vì lectin có thể đi qua dạ dày người
mà vẫn nguyên vẹn, “nồng độ lectin có thể khá cao,
do đó lượng lectin chui qua thành ruột có thể vượt quá
các chất từ thức ăn khác hàng trăm đến hàng ngàn
lần.”
Lectin
cũng có thể liên kết với thành ruột và làm tổn hại
tính thấm của nó. Sự liên kết này gây ra đủ thứ từ
lớp lông nhung bị bào mòn đến hệ thống vi sinh vật
trong ruột bị thay đổi đến tế bào chết. Nồng độ
rất cao của lectin cộng với thành ruột bị tổn thương
dẫn đến việc lectin có thể lọt qua thành ruột một
cách nguyên vẹn. Một khi chúng đi qua được lớp rào
chắn phòng thủ cơ bản đó, chúng tàn phá khắp nơi
trong cơ thể.
Khả
năng tàn phá to lớn của lectin nằm ở phản ứng tự
miễn mà chúng có thể gây ra. Trình tự chuỗi protein của
một số lectin gần như giống hệt các mô trong cơ thể
người. Một khi lectin đi qua các mối nối kín đã bị
tổn hại và vào mạch máu, chúng gây ra những tổn hại
to lớn và bi thảm trong một quá trình được gọi là sự
bắt chước ở mức phân tử. Hệ thống phòng thủ miễn
dịch của cơ thể tấn công các protein lạ, và sau khi
nhận dạng trình tự chuỗi đó là kẻ địch, nó quay ra
tấn công những chuỗi protein tương tự trong cơ thể
người. Lectin trong lúa mì được tạo ra bởi những chuỗi
amino acid giống với lớp sụn ở các khớp và lớp màng
myelin bao bọc các dây thần kinh của chúng ta. Những
lectin khác gần như giống hệt lớp màng lọc ở thận,
hay những tế bào sản xuất insulin ở tuyến tụy, hay
võng mạc, hay niêm mạc ruột của chúng ta. Và một khi đã
được bật lên, hệ thống miễn dịch không tắt đi.
Lectin khiến hệ thống miễn dịch nhầm lẫn, dạy cho nó
rằng một số bộ phận cơ bản của chúng ta là kẻ
địch. Bài học học được của hệ thống miễn dịch
trở thành sự đau đớn khủng khiếp của một cơ thể
tự tấn công chính nó, với những căn bệnh tự miễn
như bệnh Crohn, viêm loét đại tràng, viêm khớp dạng
thấp, viêm cột sống cứng khớp, lupus ban đỏ hệ thống,
bệnh vẩy nến, bệnh tiểu đường, viêm cầu thận, đa
xơ cứng, và có khả năng còn nhiều loại bệnh khác nữa
– từ viêm tấy tuyến giáp đến mẩn ngứa phát ban đến
hen suyễn.
Sự
bắt chước ở mức phân tử của lectin có thể không
phải là nguyên nhân duy nhất của các căn bệnh tự miễn.
Một số nhà nghiên cứu cũng đang nghiên cứu virus và vi
khuẩn. Ví dụ, vi khuẩn M. paratuberculosis, gây bệnh Johne
ở động vật nhai lại, có thể có liên quan đến bệnh
Crohn ở người. Có thể có nhiều nguyên nhân cho các bệnh
tự miễn, hoặc có thể sự quá tải của các chất ngoại
lai xâm nhập vào cơ thể gây ra chúng.
Nhưng
các nhà dịch tễ học biết rằng bệnh đa xơ cứng –
một căn bệnh tự miễn mà cơ thể tấn công các vỏ bọc
dây thần kinh của chính nó – là phổ biến nhất trong
các nền văn hóa mà lúa mì và lúa mạch đen là thực
phẩm chủ yếu. Trong các tài liệu khảo cổ học, bệnh
viêm khớp dạng thấp, căn bệnh để lại những bằng
chứng ác nghiệt trong các bộ xương, đi cùng lúa mì và
ngô trên khắp thế giới. Bệnh celiac chắc chắn là do
ngũ cốc gây ra, và những người bị bệnh celiac có nguy
cơ cao bị các bệnh tự miễn khác. Khả năng họ bị tâm
thần phân liệt cũng cao hơn người bình thường đến 30
lần. Trên thực tế, nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy
rằng loại bỏ gluten khỏi chế độ ăn uống cải thiện
bệnh tâm thần phân liệt.
Vậy
mà phải đến năm 1950, một bác sĩ nhi khoa người Hà
Lan, tiến sĩ Willem Dicke, mới phát hiện ra mối liên quan
giữa lúa mì và bệnh celiac. Cordain viết, “Thật là đáng
kinh ngạc khi nhân loại không hề biết, cho đến mãi gần
đây, rằng một loại thực phẩm thông thường và phổ
biến như ngũ cốc có thể gây ra một căn bệnh ảnh
hưởng từ 1 đến 3,5 người trong số mỗi 1000 người ở
châu Âu.”
Tôi
thì không nghĩ điều đó là đáng kinh ngạc. Tôi nghĩ
rằng đối với hầu hết mọi người, để họ bước ra
ngoài nền văn hóa của họ và đặt dấu hỏi về những
thông lệ của nó, đặc biệt là những thông lệ mang
nặng quyền lực và sự cấm kỵ – tình dục, tôn giáo,
thực phẩm – là điều hầu như không thể. Khi bạn thực
sự hiểu rằng những thực phẩm mà nông nghiệp mang lại
không phải là những thực phẩm phù hợp cho chúng ta,
toàn bộ nền văn minh này sẽ được nhìn dưới một ánh
sáng mới, không dễ chịu lắm, và ai là người sẵn sàng
làm điều đó?
Tuy
nhiên, sự thật về nông nghiệp sờ sờ ra đó, chờ đợi
trong đống tàn tạ của cơ thể chúng ta cũng như nó đợi
trong những dấu vết hiu hắt còn sót lại của những
cánh rừng nguyên sinh và thảo nguyên. Các nhà nghiên cứu
bệnh học thời tiền sử nói với chúng ta rằng “các
căn bệnh tự miễn có vẻ không phổ biến ở người
trước khi họ bắt đầu lối sống nông nghiệp.” Đấy
là vì chính ngũ cốc là thứ đã làm cơ thể chống lại
chính nó. Nông nghiệp đã nuốt chửng chúng ta cũng như
nó đã nuốt chửng thế giới này.
*
* * * * *
Và
cũng giống như nông nghiệp đã thay thế những quần thể
sinh học đa dạng bằng những cánh đồng canh tác độc
canh, chế độ ăn uống mà nó cung cấp đã thay thế những
thực phẩm đầy chất dinh dưỡng mà con người cần bằng
đường và tinh bột. Sự thay thế này ngay lập tức dẫn
đến sự suy giảm trong vóc dáng của con người ở những
nơi mà nông nghiệp đã lan đến – các bằng chứng không
thể rõ ràng hơn nữa. Và các lý do cũng rõ ràng như vậy.
Thịt chứa protein, khoáng chất và chất béo, chất béo mà
chúng ta cần để chuyển hóa các protein và khoáng chất.
Ngược lại, ngũ cốc về cơ bản chỉ là carbohydrate:
lượng protein ít ỏi mà chúng chứa thuộc chất lượng
kém – thiếu nhiều loại amino acid tối cần thiết – và
được bọc trong chất xơ không tiêu hóa được. Ngũ cốc
về cơ bản chỉ là đường trộn với lượng chất gây
nghiện đủ để người ăn nghiện chúng.
Đối
mặt với sự thật sinh học này sẽ là việc khó khăn
nếu bạn, cũng giống như tôi trước kia, xây dựng toàn
bộ ý thức về cá nhân dựa trên hạt ngũ cốc. Nhưng
chúng là sự thật. Có những amino acid tối cần thiết,
những thành phần cấu tạo nên protein. Chúng là tối cần
thiết bởi vì cơ thể con người không thể tự tạo ra
chúng được; chúng ta chỉ có thể ăn chúng. Tương tự
như vậy, có những acid béo tối cần thiết – những
chất béo – mặc dù đã bị bôi nhọ một cách triệt
để, chỉ có thể ăn, chứ cơ thể chúng ta không thể tự
tạo ra được.
Và
carbohydrate? Không tồn tại thứ gọi là carbohydrate tối
cần thiết. Hãy đọc lại câu ấy một lần nữa. Tiến
sĩ Eades viết, “lượng carbohydrate thực tế mà con người
cần để duy trì sức khỏe tối ưu là số không.”
Mỗi
tế bào trong cơ thể bạn đều có thể tự sản xuất
tất cả lượng đường nó cần, bao gồm cả những tế
bào trong bộ não phàm ăn của bạn. Những kẻ gièm pha
chế độ ăn ít carbohydrate đã dựng lên và lặp lại
không mệt mỏi câu chuyện huyễn hoặc rằng não của
chúng ta cần glucose và do vậy chúng ta phải ăn
carbohydrate. Vâng, não của chúng ta cần glucose – và đó
chính là lý do tại sao cơ thể chúng ta có thể tự tạo
ra glucose. Cái bộ não thực sự cần là một nguồn cung
cấp glucose thật ổn định: quá nhiều hay quá ít sẽ tạo
ra một tình trạng khẩn cấp về sinh lý mà có thể dẫn
tới hôn mê và tử vong, như bất cứ bệnh nhân tiểu
đường nào cũng có thể cho bạn biết. Và một chu kỳ
liên tục quá nhiều / quá ít chính là cái mà một chế
độ ăn dựa trên carbohydrate sẽ mang lại, dẫn đến sự
tàn tạ của những cơ quan và động mạch bị thoái hóa.
Một danh sách không đầy đủ những căn bệnh gây ra bởi
nồng độ insulin cao bao gồm “bệnh tim, cholesterol cao,
triglyceride cao, huyết áp cao, dễ bị cục máu đông trong
động mạch, ung thư đại tràng (và một số loại ung thư
khác), tiểu đường loại 2, bệnh gút, chứng ngừng thở
khi ngủ, béo phì, bệnh quá tải sắt, acid trào ngược dạ
dày (ợ nóng nghiêm trọng), viêm loét dạ dày tá tràng,
và bệnh buồng trứng đa nang.”
Đây
là những căn bệnh nghiêm trọng và chúng gắn liền với
nền văn minh. Chúng ta chấp nhận chúng là bình thường
bởi vì chúng quá phổ biến. Chúng ta ăn những thực phẩm
mà nền văn hóa của chúng ta cung cấp và chúng ta bị
bệnh. Nhưng rồi mọi người đều bị bệnh cả – có
ai không biết ai đó bị tiểu đường, ung thư, bệnh tim
hay viêm khớp? - vì vậy không ai đặt dấu hỏi cả. Và
nếu đã hỏi thì cần hỏi rất nhiều, từ kim tự tháp
thực phẩm của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA), đến vầng
hào quang công chính mà những người “cấp tiến” đã
gán cho thực phẩm nguồn gốc thực vật, cho đến bản
thân nền văn minh này. Đó là những thế lực hùng mạnh
mà trí tuệ của chúng ta – cả ở mức độ cá nhân lẫn
tập thể – từ lâu đã chịu hàng phục.
Cái
chúng ta còn lại là cảm giác thèm ăn, mơ hồ và nhiều
khi không thể chịu nổi, mà chúng ta đã tự dạy bản
thân phải đấu tranh chống lại. “Khi tôi ăn, tôi cảm
thấy no,” một người bạn tôi nói. “Nhưng khi tôi ăn
ở nhà bạn, tôi cảm thấy đủ.” Hãy tin tôi, đấy
không phải là tay nghề nấu ăn của tôi mà bạn tôi đang
nói đến. Đó là chất lượng của các thành phần: những
thực phẩm thực sự. Protein và chất béo thực sự từ
những con vật cũng được ăn những thức ăn thực sự
của chúng.
“Tôi
chưa bao giờ được ăn cái gì ngon thế này,” một người
khách khác lắp bắp trong sự kinh ngạc, sau khi ăn miếng
creme brulee đầu tiên. Đó là phản ứng đã trở nên quen
thuộc với tôi. Cô ấy chưa bao giờ được ăn trứng của
những con gà sống cả đời nghỉ ngơi và bắt sâu một
cách hạnh phúc trong các bụi cây và trên đồng cỏ, hay
kem sữa từ những con bò sống cuộc sống thỏa mãn gặm
cỏ suốt ngày. Những chi tiết này quan trọng, không phải
chỉ về mặt đạo đức và lý tưởng, mà còn về mặt
dinh dưỡng nữa. Tôi sẽ quay lại điểm này sau. Tôi chỉ
muốn nói ở đây là cơ thể chúng ta vẫn phát ra tín
hiệu tiếp nhận những thức ăn phù hợp với chúng ta,
ngay cả khi trước tới nay chúng ta chưa bao giờ được
ăn chúng, ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta không nên
ăn chúng. Chế độ ăn của cô bạn say mê món creme brulee
bao gồm chủ yếu là bột mì và gạo, với vài quả trứng
từ những con gà sống nhồi nhét lay lắt trong chuồng và
ăn những thức ăn không phù hợp với chúng, một ít sữa
chua đầy đường và đã bị lọc hết chất béo, cùng
với một số sản phẩm đậu nành sản xuất công nghiệp.
Tôi có cần phải nói thêm là cô ấy bị hạ đường
huyết trầm trọng và bắt đầu có dấu hiệu đầu của
bệnh loãng xương? Hãy lắng nghe cơn đói của bạn, đấy
là những gì tôi muốn nói với cô ấy, thay vì lời giải
thích về cỏ và chất béo, động vật và con người, sự
sống và cái chết mà tôi đã phải đưa ra.
Hãy
lắng nghe cơ thể bạn, hỡi bạn đọc, qua đó cơ thể
bạn sẽ trở nên quen thuộc hơn, ít bí ẩn hơn và đáng
yêu hơn. Việc lắng nghe ấy là khó. Bạn sẽ phải lắng
nghe vượt qua những lời tuyên truyền của những người
ủng hộ nông nghiệp, dù cho động cơ của họ là đen
tối hay cao thượng. Bạn cũng sẽ phải lắng nghe vượt
qua những cơn thèm mà những thực phẩm của nông nghiệp
tạo ra: sự nghiện những chất gây nghiện và chất đường
trong đó, cùng với tình trạng khẩn cấp sinh lý thường
trực gây ra bởi sự dao động nồng độ đường huyết.
Và bạn sẽ phải đón nhận “con thú yếu mềm trong cơ
thể bạn”, như nhà thơ Mary Oliver nói một cách đầy
hình ảnh, thay vì trừng phạt nó.
Đó
là những trở ngại đầy khó khăn, và nếu bạn không tự
vượt qua được chúng để đến với cái đói thực sự
sâu thẳm bên trong, có lẽ những tổn hại do một chế
độ ăn chay sẽ dẫn bạn đến đó. Có thể bạn thấy
những bệnh tự miễn gây ra bởi sự bắt chước ở mức
phân tử không phải là những bằng chứng đủ mạnh. Nếu
vậy thì hãy nghe điều này: “Những căn bệnh mà insulin
ảnh hưởng trực tiếp ... là nguyên nhân của tuyệt đại
đa số các ca tử vong và tàn tật ở Hoa Kỳ hiện nay.
Chúng là thần chết của nền văn minh phương Tây.” Bệnh
tim, huyết áp cao, và tiểu đường đều có nguyên nhân
từ những đợt insulin dâng trào mà ngũ cốc và đường
gây ra.
Sự
khác nhau giữa carbohydrate phức hợp và đường đơn giản
là gì? Mặc cho những chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ
tuyên bố rằng cái đầu là “tốt” và cái sau là
“xấu”, sự thực là chúng chẳng khác nhau mấy. “Nhiều
người có quan điểm rằng có những loại carbohydrate tốt
và có những loại xấu, mặc dù trên thực tế chúng chỉ
là những loại đường tạm chấp nhận được và không
thể chấp nhận được,” tiến sĩ Eades viết. Dù là
“phức hợp” hay “đơn giản”, tất cả carbohydrate
đều là đường. Điều khác nhau duy nhất là liệu chúng
là những phân tử đường tách biệt hay kết hợp thành
từng chuỗi. Glucose là loại đường đơn giản nhất.
Sucrose, đường ăn bình thường, được tạo thành từ
hai phân tử, và được gọi là disaccharide. Các
trisaccharide có ba phân tử. Đường với nhiều phân tử
hơn nữa được gọi là polysaccharide. Chúng bao gồm ngũ
cốc, đậu và khoai tây.
Tại
sao những sự khác biệt này không thành vấn đề? Bởi
vì hệ thống tiêu hóa của chúng ta không thể tiêu hóa
được những chuỗi dài. Chúng quá lớn để có thể được
hấp thụ qua thành ruột. Vì vậy, cơ thể chúng ta phân
tách chúng thành những loại đường đơn giản. Và đến
từng phân tử đường cuối cùng đều đi vào mạch máu.
Vậy
là dù nó bắt đầu cuộc đời của nó là một cái bánh
mì không mỡ, một phần tư cốc đường từ lọ đường,
một lon nước ngọt, một củ khoai tây nướng hay một
nắm đậu jelly, vào thời điểm hệ thống tiêu hóa của
bạn hoàn thành nhiệm vụ phân tách các chuỗi tinh bột
và đường ấy, tất cả chúng đều trở thành … đường.
Cụ thể là đường glucose. Và cuối cùng, có rất ít sự
khác biệt về mặt trao đổi chất giữa việc bạn ăn
một củ khoai tây nướng hay uống một lon 350 ml nước
ngọt. Mỗi cái đều chứa khoảng 50 gam đường dễ tiêu
hóa và nhanh chóng xuất hiện trong mạch máu của bạn.
Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng củ khoai tây còn
tồi tệ hơn một chút khi so sánh về mức độ gia tăng
đường huyết sau khi ăn.
Theo
Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, chúng ta nên ăn một chế độ ăn
bao gồm 60% carbohydrate. Cơ thể bạn sẽ biến lượng
carbohydrate đó thành gần hai cốc đường, và mỗi phân
tử đường trong số đó đều phải được giải quyết.
Lượng
đường đó trong máu sẽ dẫn đến hôn mê hoặc tử vong
nếu con người không có cách để giải phóng đường, và
giải phóng một cách nhanh chóng. Vậy là cơ thể được
trang bị một cơ chế để đẩy đường ra khỏi máu,
nhưng đó là một cơ chế mà nông nghiệp đã bào mòn.
Nồng độ đường huyết cao kích thích tuyến tụy sản
xuất insulin. Insulin là một hormone chịu trách nhiệm dự
trữ chất dinh dưỡng. Nhiệm vụ chính của nó là chuyển
lượng đường, amino acid và chất béo thừa ra khỏi mạch
máu và dự trữ trong các tế bào.
Đường
là thứ nguy hiểm nhất trong ba thứ đó, do quá nhiều
đường có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng rất
nhanh chóng. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng nhất của
insulin là giữ nồng độ đường huyết ở ngoài vùng đỏ.
Nó làm việc đó bằng cách liên kết với các thụ thể
insulin. Đó là những protein trên mặt tế bào có tác dụng
hấp thụ đường từ máu. Insulin là cái công tắc bật
các thụ thể insulin lên để chúng hoạt động vận
chuyển đường từ máu vào tế bào.
Những
bệnh nhân tiểu đường loại 1 có tuyến tụy sản xuất
rất ít insulin. Các thụ thể insulin của họ hoạt động
tốt, nhưng do không có sự hiện diện của insulin để
kích thích chúng, những thụ thể ấy không hoạt động.
Đó là lý do tại sao những bệnh nhân này phải dùng
insulin bổ sung.
Bệnh
tiểu đường loại 2 có một nguyên nhân khác. Ăn bất cứ
loại carbohydrate hay đường nào đều khiến nồng độ
glucose trong máu dâng cao. Tuyến tụy phản ứng bằng cách
sản xuất insulin, insulin kích thích các thụ thể insulin,
và các thụ thể insulin bơm đường vào trong tế bào để
dùng hoặc dự trữ. Mọi thứ đến đây đều ổn cả.
Vấn
đề xảy ra khi cơ chế này bị lạm dụng. Khi nồng độ
đường huyết liên tục tăng cao do chế độ ăn giàu
carbohydrate, lượng insulin cần thiết để đối phó với
điều đó, cùng với thời gian, sẽ làm tổn thương các
thụ thể insulin, làm giảm khả năng hoạt động của
chúng. Mặc dù vậy, nồng độ đường huyết cao vẫn cần
được giảm xuống, và giảm xuống một cách nhanh chóng.
Vậy là tuyến tụy bơm ra nhiều insulin hơn nữa. Việc
này tạm thời buộc các thụ thể insulin hoạt động,
nhưng cuối cùng lại gây ra nhiều tổn hại hơn. Bây giờ
có nhiều insulin trong máu đến nỗi khi tất cả lượng
insulin đó được hấp thụ bởi các thụ thể insulin,
nồng độ đường huyết sẽ trở nên quá thấp. Chu kỳ
này, đường huyết cao – quá nhiều insulin – đường
huyết thấp, được gọi là triệu chứng hạ đường
huyết, và nó kết thúc khi người đó, tuyệt vọng tìm
cách nâng nồng độ đường huyết của mình lên, cho thêm
một liều đường mới vào miệng với bàn tay run run, đổ
mồ hôi. Điều này sẽ giúp cô ấy cảm thấy dễ chịu
được khoảng một hay hai giờ cho đến khi nồng độ
đường huyết của cô lại lao xuống dốc một lần nữa
và toàn bộ quá trình lại bắt đầu lại từ đầu.
Điểm
kết thúc cuối cùng của nó là bệnh tiểu đường loại
2. Các thụ thể kháng insulin đòi hỏi quá nhiều insulin
để hoạt động, nhiều hơn lượng mà tuyến tụy có thể
sản xuất được. Lượng đường dư thừa thường xuyên
trong máu phá hủy các dây thần kinh, các động mạch, con
ngươi và tim. Mặc dù y học đã tiến bộ rất nhiều,
cuộc đời của một bệnh nhân tiểu đường vẫn bị
rút ngắn đến 1/3 so với người thường. Đấy là cái
giá của chế độ ăn uống của nền văn minh này.
Do
insulin còn kiểm soát một số chức năng sống cơ bản
khác, nồng độ insulin cao sẽ gây thiệt hại khắp cơ
thể. Insulin kích hoạt sự tổng hợp cholesterol, kích
thích các enzyme sản xuất cholesterol. Khoảng 80% lượng
cholesterol của bạn được làm ra trong cơ thể, chỉ có
20% là có được qua thức ăn. Đó cũng là một lý do tại
sao những chế độ ăn ít mỡ đã tỏ ra vô dụng trong
việc giảm cholesterol. Mặc dù mọi tế bào của bạn đều
cần và có thể tự sản xuất cholesterol, hầu hết
cholesterol được sản xuất tại gan. Nồng độ insulin cao
có nghĩa là nồng độ cholesterol cao. Tiến sĩ Eades giải
thích tại sao.
Lượng
đường dư thừa từ thực phẩm làm tăng nồng độ đường
huyết, qua đó làm tăng insulin. Insulin kích hoạt quá trinh
lưu trữ dinh dưỡng dẫn đến việc tích tụ chất béo.
Để dự trữ chất béo và xây dựng cơ bắp, cơ thể
phải sản xuất các tế bào mới, và insulin đóng vai trò
như một hormone tăng trưởng trong quá trình này.
Cholesterol, chất cung cấp cấu trúc khung cơ bản cho tất
cả các tế bào, cũng có một vai trò không thể thiếu
được trong quá trình xây dựng và dự trữ này.
Thế
còn huyết áp cao, bệnh tim và xơ cứng động mạch? Quá
nhiều insulin kích hoạt sự tăng trưởng của các tế bào
cơ trơn ở thành động mạch, làm thành động mạch dày
lên và giảm tính đàn hồi. Dung tích máu của động mạch
giảm đi. Điều này có nghĩa là tim phải bơm mạnh hơn,
và đó chẳng qua là một cách diễn đạt khác của cụm
từ “cao huyết áp”. Insulin cũng khiến thận giữ chất
lỏng nhiều hơn, làm tăng huyết áp hơn nữa. Những động
mạch kém đàn hồi dễ bị tắc và bị co thắt, một
trong những nguyên nhân của bệnh tim. Insulin cũng khuyến
khích các sợi mô liên kết phát triển bên trong động
mạch, tạo điều kiện cho quá trình tắc động mạch.
Insulin
làm tăng quá trình ôxy hóa các phân tử LDL. Những chất
làm việc chăm chỉ này đã bị kết tội và gán cho cái
tên “cholesterol xấu” mà không có lý do gì rõ ràng cả.
Giống như phần còn lại của cơ thể chúng ta, chúng chỉ
xấu khi chúng bị tổn hại. Và cái gì gây tổn hại cho
chúng? Quá nhiều đường huyết và insulin. Đường có thể
gắn kết với protein ở khắp nơi trong cơ thể và bắt
đầu phản ứng tạo tổn thương vĩnh viễn cho các tế
bào. Quá trình này gọi là glycation và fructation tương ứng
với hai loại đường glucose và fructose. Nó giống như quá
trình protein và chất béo trong sữa, cùng với đường và
nhiệt … tạo thành caramel. Tiến sĩ Eades giải thích:
Năm
này qua năm khác, từ khi chúng ta ra đời, những tổn hại
gây ra bởi quá trình caramel hóa này tích tụ trong cơ thể
chúng ta; trong suốt cả cuộc đời, nó là quá trình gây
tổn hại lớn nhất cho các protein tồn tại lâu, bao gồm
cả elastin, protein cung cấp sự đàn hồi trẻ trung cho làn
da; crystallin, chất protein đặc biệt tạo thành thủy tinh
thể cho mắt; DNA, bản kế hoạch chi tiết cho tất cả
các tế bào; và collagen, protein cấu tạo nên cấu trúc
mô, chiếm hơn 30% tổng khối lượng protein của cơ thể,
có mặt trong các mô ở khắp nơi trong cơ thể, bao gồm
cả tóc, da, móng tay, thành động mạch và tĩnh mạch,
khung xương và các cơ quan nội tạng. Tổn hại ở những
protein tối quan trọng này không chỉ dẫn đến những vấn
đề về thẩm mỹ như nếp nhăn và các đốm đồi mồi,
mà cả những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng từ đục
thủy tinh thể cho đến sự suy sụp của những cơ quan
nội tạng chính như thận và tim.
Đấy
là mới chỉ từ việc ăn đường. Nồng độ insulin quá
cao gây ra bởi lượng đường đó còn làm tình hình tồi
tệ hơn: insulin làm tăng tốc độ ôxy hóa các phân tử
LDL. Vậy là với một chế độ ăn dựa trên carbohydrate,
có rất nhiều đường để gây ra tổn hại cho cơ thể,
và lượng đường đó gây ra nồng độ insulin cao khiến
tổn hại càng nặng nề hơn nữa. Một khi bị tổn hại,
các phân tử LDL tiến thẳng đến thành động mạch. Ở
đó nó gây ra một phản ứng miễn dịch. Các đại thực
bào, những chiến sĩ bảo vệ của cơ thể, sẽ tấn công
và phá hủy LDL, tạo ra sự sưng tấy và những mảnh
cholesterol không hoàn chỉnh. Những mảnh cholesterol sẽ
tích tụ lại trong động mạch tạo thành những chỗ tắc
động mạch.
Insulin
kích hoạt quá trình sản xuất fibrinogen, chất được
dùng trong giai đoạn đầu tiên của sự hình thành cục
máu đông. Insulin còn kích thích thận thải quá nhiều
magiê và kali, dẫn đến sự rối loạn nhịp tim có thể
đe dọa đến tính mạng. Còn có giai đoạn nào của bệnh
tim mạch vành không có mặt trong bản cáo trạng này?
Hormone
đối trọng với insulin là glucagon. Khi mức độ đường
huyết của bạn đang rơi tự do, nhiệm vụ của glucagon
là đưa nó trở lại mức bình thường. Glucagon làm việc
này bằng cách kích thích cơ thể đốt năng lượng dự
trữ, và nó nhận được giúp đỡ: cả adrenaline và
cortisol đều tham gia vào quá trình này. Hãy nhớ rằng
việc nồng độ đường huyết ra ngoài một dải hẹp –
quá thấp hoặc quá cao – là một tình trạng khẩn cấp
đe dọa đến tính mạng, và nó đòi hỏi những biện
pháp khẩn cấp. Adrenaline chuẩn bị cho cơ thể chiến đấu
hoặc chạy trốn. Nó tống năng lượng ra khỏi nơi dự
trữ và tăng mạnh sự trao đổi chất trong các cơ bắp
của bạn, giúp bạn sẵn sàng hành động. Một trong những
cách nó dồn thêm năng lượng cho các cơ bắp là bằng
cách ngừng hoạt động hệ thống tiêu hóa của bạn: sự
có mặt của adrenaline ức chế sự sản xuất acid
hydrochloric của dạ dày.
Điều
đó không sao nếu nó chỉ thỉnh thoảng xảy ra khi bị hổ
tấn công chẳng hạn, nhưng ăn một chế độ ăn nhiều
carbohydrate là bị hổ tấn công ba lần mỗi ngày, ngày
này qua ngày khác. Bạn có thể làm tổn hại khả năng
sản xuất acid hydrochloric của dạ dày, và bất cứ ai có
vấn đề về đường huyết đều bị nguy hiểm. Kết quả
của quá trình đó là bệnh không tiêu, và tôi tự chuốc
lấy nó. Tiến sĩ Tom Cowan viết:
Một
trong những manh mối để chữa bệnh không tiêu là việc
nó thường xảy ra nhất ở những người bị tiểu đường
hoặc bị thiểu năng tuyến giáp. Sự kiểm soát nồng độ
đường huyết liên quan mật thiết đến hoạt động của
dạ dày và tình trạng sức khỏe của các dây thần kinh.
Chế độ ăn rất ít carbohydrate đã được áp dụng thành
công trong hầu như tất cả các chứng rối loạn dạ dày
bởi vì người ta đã tìm ra rằng insulin có liên quan mật
thiết đến sự sản xuất acid, áp suất ở cơ vòng ngăn
cách thực quản với dạ dày và sự kiểm soát nội tiết
tố đối với các chức năng dạ dày khác. Hạ thấp nồng
độ insulin thông qua một chế độ ăn ít carbohydrate …
là bước đầu tiên trong việc giải quyết rối loạn
này.
Trong
suốt 14 năm, tôi bị đầy bụng và buồn nôn. Bất cứ
cái gì tôi ăn vào trở thành một cục chì trong dạ dày
tôi. Khi tôi nói 14 năm, tôi muốn nói 14 năm không dứt.
Lần duy nhất tôi cảm thấy đỡ là khi tôi không ăn chút
gì trong 48 giờ. Không một bác sĩ nào chẩn đoán đúng
hay khiến nó đỡ đi được chút nào – cho đến khi tôi
tìm được một bác sĩ chuyên chữa cho những người từng
ăn thuần chay. Ba tuần dùng betaine hydrochloride, một
dạng acid hydrochloric, và cơn buồn nôn chấm dứt. Tôi có
được phép gọi đó là một sự kỳ diệu không? Tôi
biết rằng so sánh với những điều khủng khiếp đang
xảy ra trên toàn cầu, cái dạ dày của tôi chỉ là một
cái chấm bé xíu. Nhưng đó là cái chấm của tôi. Cái
cảm giác đầy bụng và buồn nôn không dứt ấy quả là
kinh khủng.
Và
đây là một số câu hỏi cho bạn, hỡi tín đồ ăn chay.
Bạn có thấy buồn nôn khi ăn không? Cụ thể là Dạ dày
bạn có cảm thấy đầy trương lên hay cảm giác như phải
mất một thời gian dài nó mới tiêu hết được? Đó
không phải là vì nhóm máu của bạn và đó không phải
là vì “tạng người” của bạn là chỉ hợp với “ăn
nhẹ” - hai lời biện hộ tôi nghe rất nhiều từ những
người ăn chay đang phải chịu đựng những căn bệnh dạ
dày bí ẩn. Nếu bạn không thể ăn thứ thức ăn mà cơ
thể bạn cần, đấy là vì bạn đã làm hư hỏng hệ
thống tiêu hóa của bạn với quá nhiều chu kỳ đường
huyết quá cao rồi lại quá thấp, và quá nhiều
adrenaline. Căn bệnh ấy có thể chữa được, nhưng bạn
sẽ phải ăn protein và chất béo thực sự chứ không phải
là đường. Bạn cần để dành adrenaline cho những trường
hợp khẩn cấp mà thôi. Liệu chúng ta có thể đồng ý
rằng bữa sáng không phải là một trong số đó không?
*
* * * * *
Cholesterol
vẫn là bức tường thành vững chắc mà những những
người ăn chay vì dinh dưỡng đứng sau. Giả Thuyết Chất
Béo – lý thuyết cho rằng ăn nhiều chất béo sẽ gây ra
bệnh tim – là khuôn vàng thước ngọc mà những bậc sư
phụ về dinh dưỡng đã truyền lại. Con đường đúng
đắn duy nhất đã được khai sáng trước mắt chúng ta:
Cholesterol là con quỷ dữ của thời đại này, là bệnh
dịch hạch hiện đại, là bản án của Chúa Trời giáng
xuống loài người, đày đọa những kẻ lầm đường lạc
lối với bệnh tật. Ít nhất đó là những gì những
người đứng đằng sau Giả Thuyết Chất Béo đã tuyên
bố, sau khi nhìn vào hệ thống tiêu hóa của … thỏ.
Thỏ
ư?
Vâng,
tất cả đều bắt đầu khi những nhà nghiên cứu cho thỏ
ăn protein và cholesterol, và nồng độ cholesterol trong máu
chúng tăng vọt lên. Và nó tăng đến những mức độ
chưa bao giờ đo được ở người. Lượng cholesterol ở
trong các động mạch thỏ, nhưng nó gây ra một loại tổn
thương khác so với những gì thấy ở người, và những
con vật ấy cũng không bao giờ bị tắc động mạch cả.
Thay vào đó, cholesterol tích tụ trong các cơ quan nội tạng
của chúng, dẫn đến sự tích tụ mỡ trong gan và thận,
cùng với mắt bị đổi màu và lông rụng. Những con thỏ
bị nhồi ăn này không chết vì bệnh tim mạch; chúng chết
vì đói vì chúng không muốn ăn nữa. Đó chính là những
gì bạn có thể trông đợi khi bạn lấy một con thú ăn
cỏ với cơ thể được thiết kế để tiêu hóa cellulose
và nhồi nhét đầy protein và chất béo vào nó.
Thí
nghiệm điên rồ này cũng đã được thực hiện trên
“gà, chuột bạch, bồ câu, vẹt, dê” với những kết
quả tương tự. Khi nó được thực hiện trên động vật
ăn thịt – mèo, chó, cáo – nó không gây ra tổn thương
nào. Ở chó, cho ăn cholesterol nhiều không gây ra bất cứ
tác động nào trừ phi con vật khốn khổ đã bị phẫu
thuật cắt bỏ tuyến giáp hay bị tiêm thuốc để ức
chế hoạt động tuyến giáp.
Anthony
Colpo viết, “Hàm lượng cholesterol cao trong thức ăn có
vẻ như được chuyển hóa dễ dàng bởi những động vật
ăn thịt, trong khi các động vật ăn cỏ có thể không có
những cơ chế thích hợp để chuyển hóa lượng
cholesterol và mỡ động vật lớn trong thức ăn, cả hai
thứ đó đều vắng mặt trong thức ăn từ thực vật
bình thường của chúng.” Khó có gì hiển nhiên hơn thế
nữa phải không? Hãy nhớ rằng 80% lượng cholesterol trong
máu của bạn được tạo ra bởi chính cơ thể bạn. Chỉ
có 20% là từ thức ăn bạn ăn vào. Cơ thể bạn biết nó
cần chừng nào cholesterol. Nó có thể bị lừa – bởi
insulin chẳng hạn – nhưng nó điều chỉnh lượng
cholesterol nó sản xuất dựa trên những gì bạn ăn. Nếu
bạn ăn nhiều cholesterol, nó sẽ sản xuất ít đi. Một
dự án phân tích kết quả từ một trăm sáu mươi bảy –
vâng, 167 – thí nghiệm về cholesterol trong chế độ ăn
chỉ ra rằng tăng lượng cholesterol trong chế độ ăn có
ảnh hưởng không đáng kể lên lượng cholesterol trong máu
và không có liên hệ nào tới nguy cơ bệnh tim mạch.
Trước
khi chúng ta tiếp tục, bạn có biết cholesterol là cái gì
không đã? Cái chất lành mạnh và bị phỉ báng khắp nơi
này cần thiết cho tất cả các tế bào trong cơ thể bạn,
đặc biệt là những tế bào làm bạn là con người.
Chính xác ra mà nói, cholesterol là một sterol chứ không
phải là một chất béo. Một trong những chức năng chính
của gan là sản xuất cholesterol, không phải vì gan bạn
muốn bạn chết, mà là vì sự sống không thể có được
nếu không có cholesterol. Nồng độ cholesterol thấp có thể
gây chết người. Sự gia tăng tỷ lệ tử vong do
cholesterol thấp này nghiêm trọng đến mức Học Viện
Quốc Gia về Tim, Phổi và Máu trực thuộc Viện Y Tế
Quốc Gia Hoa Kỳ đã tổ chức một hội thảo để thảo
luận các khám phá của các nhà nghiên cứu về chủ đề
này. “Những bằng chứng từ nhiều nguồn khác nhau đã
được trình bày và chỉ ra mối liên hệ giữa nồng độ
cholesterol thấp trong máu và nhiều dạng ung thư, đột quỵ
xuất huyết, các bệnh về hô hấp và tiêu hóa, và những
cái chết do bạo lực,” Colpo tóm tắt. Ở Pháp, một
nghiên cứu trên 6000 người đàn ông trên 17 tuổi cho thấy
những người có lượng cholesterol giảm nhiều nhất có
nguy cơ ung thư cao nhất. Hay là những bệnh nhân suy tim có
nồng độ cholesterol thấp nhất có nguy cơ tử vong cao
gấp hai lần bình thường? Còn nhiều ví dụ nữa, nhưng
tất cả chúng đều sẽ có vẻ thậm vô lý cho đến khi
bạn hiểu rằng cholesterol là một chất giúp bảo tồn sự
sống, chứ không phải là một kẻ sát nhân trong mạch
máu của bạn.
Cholesterol
có một khả năng đặc biệt đóng vai trò rất quan trọng
trong cơ thể động vật: nó không hòa tan trong nước. Môi
trường bên trong của chúng ta là chất lỏng. Vì vậy,
màng tế bào cần được cấu trúc ổn định. Không có
cholesterol, bạn sẽ là một vũng bầy nhầy, chứ không
phải là một động vật. Màng tế bào của bạn còn cần
không thấm nước nữa. Điều này đặc biệt cần thiết
cho các tế bào thần kinh, bao gồm cả bộ não của bạn.
Đó là một lý do tại sao có nhiều cholesterol ở não hơn
bất cứ chỗ nào khác.
Cholesterol
còn là chất sửa chữa cơ bản của cơ thể. Tính toàn
vẹn của thành ruột của bạn đặc biệt phụ thuộc vào
nó. Và cholesterol có khả năng chống ôxy hóa, giữ cho
những gốc tự do gây ung thư khỏi gây tổn hại. Cuối
cùng, tất cả các hormone của bạn, bao gồm cả hormone
sinh dục, đều được làm từ cholesterol.
Nghe
vậy có khủng khiếp lắm không?
Trong
nền văn hóa này, nói một cách hình tượng, chúng ta là
những đứa trẻ đang ngồi bên đống lửa trại, trong
lúc bóng đêm đang đổ xuống, lắng nghe những đứa trẻ
lớn đầu như là Hiệp Hội Tim Mạch Mỹ và Bộ Nông
Nghiệp Mỹ. Bọn họ kể cho chúng ta nghe câu chuyện về
một gã điên chuyên đi bắt trẻ con vừa trốn khỏi bệnh
viện tâm thần với cái tên Cholesterol … Những người
lớn đứng phía sau bảo chúng ta rằng chuyện ấy không
có thật, nhưng có khi nào chúng ta lắng nghe họ?
Một
trong những đứa trẻ lớn đầu ấy là Ancel Keys, người
đã bố trí nghiên cứu Sáu Quốc Gia nổi tiếng. Hình 4A
là những gì ông ta muốn bạn biết.
Hình 4A: Tương quan giữa phần trăm calo đến từ chất béo và tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch (trên 1000) |
“Nghiên
cứu” này là nực cười vì hai lý do. Để hiểu chúng,
bạn cần kiến thức khoa học cơ bản mà hệ thống giáo
dục công lập đã không cung cấp cho bạn. Tất cả mục
đích của một thí nghiệm là để kiểm tra một giả
thuyết. Bạn làm điều đó bằng cách loại trừ càng
nhiều tham biến càng tốt, chỉ để lại một hay một số
nhỏ tham biến để kiểm tra. Với những nghiên cứu dịch
tễ học như nghiên cứu Keys, điều đó là không thể. Đó
là lý do tại sao nghiên cứu dịch tễ học chỉ có thể
chứng minh sự tương quan. Chúng không thể chứng minh quan
hệ nhân quả. Chúng có thể gợi ý những mảng đáng chú
ý để thăm dò, thế nhưng cho tới khi tất cả các tham
biến được kiểm soát và các kết quả có thể lặp lại
được, không một kết luận chắc chắn nào có thể rút
ra được. Kiểu nghiên cứu so sánh xuyên quốc gia mà Keys
làm có thể so sánh với việc so sánh “quả táo với quả
cam” - nghĩa là so sánh giữa các quốc gia với những môi
trường văn hóa, xã hội, chính trị và vật chất rất
khác nhau. Với một số lượng vô hạn các tham biến như
vậy, rút ra một kết luận dứt khoát về mối quan hệ
nhân quả là nực cười.
Nghiên
cứu của John Yudkin năm 1957 chỉ ra sai lầm khi đánh đồng
sự tương quan với quan hệ nhân quả. Bạn có thể thấy
từ hình 4B rằng việc sở hữu TV và radio có sự tương
quan với bệnh tim mạch mạnh hơn bất cứ yếu tố dinh
dưỡng nào. Nhưng không có ai trên thế giới này cho rằng
TV gây ra bệnh tim mạch, hay vứt TV đi sẽ khiến chúng ta
sống lâu hơn. Cũng không ai đi điều tra xem liệu TV có
phát ra những tia làm tim ngừng đập hay tỏa ra chất độc
làm tổn hại mạch máu không. Không có cơ quan y tế chính
phủ nào trả tiền để dân chúng vứt TV đi nhằm chữa
trị bệnh tim mạch. Không ai nhầm lẫn sự tương quan với
quan hệ nhân quả.
Hình 4B: Từ trên xuống: Lượng mỡ động vật ăn trung bình mỗi ngày (gam), tổng số TV và radio mới mỗi năm (triệu cái) và số tử vong do bệnh tim mạch mỗi năm (trên 1 triệu người). |
Tiến
sĩ Uffe Ravnskov xây dựng một đồ thị (hình 4C) cho thấy
mối tương quan giữa mức thuế thu nhập với bệnh tim
mạch. Theo đồ thị của ông, nếu mức thuế thu nhập
giảm xuống dưới 9.55%, những công dân đáng kính trọng
của Thụy Điển sẽ thoát hoàn toàn khỏi lưỡi hái của
bệnh tim mạch.
Hình 4C: Tương quan giữa mức thuế năm 1976 và tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch ở mỗi thành phố (trên 100.000 người) |
Những
nghiên cứu dịch tễ học kiểu này cho ra những dòng tít
lớn rất kêu trên mặt báo. Tôi thấy chúng thường
xuyên. Có một cái gần đây về trọng lượng cơ thể và
thời gian ngủ. Có vẻ như các nhà nghiên cứu tìm ra mối
tương quan nghịch giữa trọng lượng của các đối tượng
thí nghiệm và thời gian họ ngủ. Bạn càng nặng thì bạn
ngủ càng ít. Có phải điều đó có nghĩa rằng nếu bạn
ngủ nhiều hơn thì bạn sẽ giảm cân? Đánh giá qua các
diễn đàn, một số khá lớn các thành viên đã nhảy
thẳng từ sự tương quan sang quan hệ nhân quả mà không
dừng lại chút nào để suy nghĩ về sự hợp lý của nó.
Vâng, có thể đó là một lời giải thích khả dĩ cho sự
tương quan: bằng một cách nào đó ngủ ít khiến tăng
cân. Vì vậy ngủ nhiều hơn có thể khiến bạn giảm
cân. Nó cũng có thể là ngược lại: nặng cân khiến bạn
khó ngủ, và dành nhiều thời gian hơn cho giấc ngủ sẽ
chỉ chữa được chứng khó ngủ chứ không ảnh hưởng
gì đến cân nặng. Hay nó có thể là một triệu thứ
khác.
Ý
tôi ở đây là đừng bao giờ đánh cược tiền bạc của
bạn – chứ đừng nói đến sức khỏe của bạn – lên
một nghiên cứu dịch tễ học. Và hãy học cách phân
biệt giữa mối tương quan và quan hệ nhân quả. Hay, như
một số nhà nghiên cứu đã nói sau khi những số liệu
thực tế về chế độ ăn nhiều chất béo bác bỏ giả
thuyết về chất béo của họ: “Những quan sát trên dân
chúng chỉ có ích cho việc xây dựng nên các giả thuyết.
Chúng không thể cung cấp những bằng chứng có tính
thuyết phục về mối quan hệ nhân quả.”
Keys
chỉ sử dụng những số liệu phù hợp với giả thuyết
của ông ta. Ông ta có dữ liệu dinh dưỡng từ 22 quốc
gia và ông ta chỉ dùng những nước mà ông thích. Hình 4D
phục hồi tất cả các dữ liệu đã bị ông ta loại bỏ.
Bạn có thể thấy giả thuyết của ông ta bị bác bỏ
hoàn toàn bởi chính những dữ liệu mà ông ta có, và đã
bỏ qua một cách cố ý. Một nhà nghiên cứu khác, tiến
sĩ George Mann, khám phá ra rằng Keys còn loại bỏ cả
những nước có mối tương quan giữa sự ít vận động
và bệnh tim mạch. Ngay trên sân nhà, nghiên cứu của Keys
là một thất bại thảm hại cho đến khi ông ta bóp méo
số liệu để nó phù hợp với mục đích của ông ta.
Hình 4D: Tương quan giữa phần trăm calo đến từ chất béo và tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch (trên 1000) |
Tiến
sĩ Malcolm Kendrick xây dựng một biểu đồ tương tự
(hình 4E) sử dụng dữ liệu cập nhật từ dự án MONICA
của WHO (Tổ chức Y tế Thế giới). MONICA là dự án thu
thập dữ liệu về dinh dưỡng và bệnh tim mạch lớn
nhất từng có từ trước tới nay, bao gồm dữ liệu dinh
dưỡng từ 21 quốc gia và 10 triệu người trong vòng 10
năm.
Hình 4E: Mức cholesterol trung bình (đường liền) và tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch (đường đứt) |
Kết
quả? Thậm chí một mối tương quan giữa nồng độ
cholesterol, lượng chất béo trong chế độ ăn và tỷ lệ
tử vong từ bệnh tim mạch cũng không có.
Kendrick
cũng lưu ý rằng nếu Keys chọn Đức, Thụy Sĩ, Pháp và
Thụy Điển thay vì Hy Lạp, Nam Tư cũ, Hoa Kỳ và Nhật
Bản, Keys đã “chứng minh” một mối tương quan nghịch.
“Nghĩa là dân chúng ăn càng nhiều chất béo và
cholesterol thì nguy cơ bệnh tim mạch càng thấp.”
Thế
nhưng những đứa trẻ lớn đầu ở Hiệp hội Tim mạch
Mỹ, Bộ Nông nghiệp Mỹ và Pfizer thích gã điên chuyên
bắt trẻ con của bọn họ hơn. Mặc dù những thông tin
trên đã có được hơn 40 năm, và rất nhiều bác sĩ và
nhà nghiên cứu đã lên án Giả Thuyết Chất Béo là một
trò lừa bịp cũng lâu như vậy, y học chính thống vẫn
coi “Phương trình Keys” là “cách chính xác nhất để
dự đoán ảnh hưởng của chế độ ăn uống lên nồng
độ cholesterol trong máu của các cá nhân và tập thể, và
qua đó, nguy cơ bị bệnh tim mạch của họ.” Rõ ràng là
chúng ta phải tự mình tìm ra sự thật về chế độ ăn
uống và sức khỏe, chất béo và tim mạch, nguyên nhân và
kết quả.
Bệnh
tim mạch hàng năm chịu trách nhiệm cho một con số khổng
lồ người chết và tàn tật ở Hoa Kỳ. Tôi hy vọng rằng
những bằng chứng trình bày trong những trang trước –
đặc biệt là những bằng chứng bằng hình ảnh – là
có sức thuyết phục, là đủ sức thuyết phục để giải
phóng bạn. Hãy ném vào sọt rác những hộp margarine mang
bệnh tật, những hộp sữa ít chất béo không nuốt nổi,
những đồ ăn không chất béo làm từ đậu nành mà hương
vị duy nhất là một dư vị ôi mà bạn đã quyết tâm
không để ý đến. Cơ thể bạn – bộ não của bạn, bộ
xương của bạn, trái tim của bạn – đang đói, và ở
một nơi nào đó bên trong bạn, bạn biết điều đó là
đúng. Bạn không có gì để mất, ngoại trừ cực hình
mà bạn vẫn đang phải chịu đựng.
*
* * * * *
Nếu
bạn muốn đào sâu hơn nữa vào các nghiên cứu, nếu bạn
cần thêm thông tin để cảm thấy chắc chắn trước khi
làm một việc lớn như là cải tổ hoàn toàn chế độ
ăn, tôi gợi ý một số điểm cần lưu ý sau đây.
- Các nghiên cứu dịch tễ học là rất hạn chế bởi có một số lượng vô hạn các tham biến ảnh hưởng đến kết quả mà không thể kiểm soát được.
- Nếu bạn vẫn muốn xem các nghiên cứu dịch tễ học, lưu ý đừng bao giờ nhầm lẫn sự tương quan với quan hệ nhân quả.
- Các nghiên cứu có kiểm soát thường là tốt hơn, nhưng hãy đọc chúng cẩn thận. Đừng bao giờ tin các dòng tít lớn trên mặt báo. Và cũng đừng chỉ đọc mỗi kết luận, mà đọc toàn bộ bài nghiên cứu. Các dữ liệu thường hay bị nhào nặn và bóp méo để hỗ trợ cho sự thiên vị có sẵn của tác giả nghiên cứu. Hãy tự mình kiểm tra xem có phải tất cả các tham biến đều giống nhau trong tất cả các trường hợp ngoại trừ tham biến đang được kiểm tra hay không. Và để ý dấu vết của đồng tiền. Cực kỳ thận trọng với những nghiên cứu được tài trợ bởi các công ty dược phẩm.
- Không bao giờ tin mỗi một nghiên cứu, dù cho nó có hoàn hảo đến mức nào hay bạn thích các kết luận của nó đến đâu. Hãy nhớ nguyên tắc cơ bản của khoa học: để một kết quả thí nghiệm có giá trị, nó phải có thể lặp lại được bởi một người khác.
- Hãy nhớ lời của Jessica Prentice, tác giả cuốn Full Moon Feast (Lễ Hội Trăng Tròn): “Mặc dù các hiệu sách chứa đầy những lời khuyên làm thế nào để trở nên khỏe mạnh hay giảm cân, và các phương tiện truyền thông ra rả liên tục về những thực phẩm nào là có lợi và cái nào là có hại cho chúng ta, tôi thấy có rất ít những gì tôi nghe được về thực phẩm ở đất nước Mỹ này là có ích cho tôi. Sự thừa thãi thông tin không giúp tôi ăn uống tốt hơn – trên thực tế, nó làm tôi bối rối và còn có hại là khác.”
Tôi
cũng đã trải qua sự bối rối mơ hồ đó, mà đôi khi
nó lớn thành nỗi sợ khủng khiếp, khi mà một thứ cơ
bản như thức ăn, như bản sắc cá nhân, trở nên mờ mờ
ảo ảo, và những quy tắc rõ ràng định rõ cái tốt,
cái xấu, cái tôi, cái không phải tôi, sụp đổ. Bạn có
thể muốn tìm cách gia cố lại những quy tắc đó sau khi
xem những biểu đồ ở những trang trước. Tôi biết cái
cảm giác đó, sự mong muốn đến tuyệt vọng đó, và đó
là một phản ứng rất con người. Nhưng để theo đuổi
sự thật, chúng ta phải tiếp nhận khả năng chúng ta có
thể đã thiếu hiểu biết, đã sai lầm. Chúng ta phải
chấp nhận sự bối rối mơ hồ, sự không chắc chắn mà
nó mang lại. Nền văn hóa này của chúng ta đã đánh mất
kim chỉ nam của lối sống và chế độ ăn truyền thống.
Các nghiệp đoàn tư bản Mỹ đã bắt đầu chiếm lấy
quá trình sản xuất thực phẩm từ những năm 1920, và
chúng đã hoàn thành việc đó được hơn một thế hệ
rồi. Chúng ta còn rất ít thứ để dựa vào, và những
lời khuyên của các chuyên gia trong xã hội chúng ta đã
tỏ ra không đáng tin cậy. Nếu chúng ta chấp nhận rằng
tìm được lối ra khỏi cái ma trận này là một việc
khó khăn, nó sẽ trở nên dễ dàng hơn.
*
* * * * *
Để
cho Giả thuyết Chất béo trở thành Định luật Chất
béo, những điều sau phải đúng: Chất béo bão hòa phải
làm tăng nồng độ cholesterol, và cholesterol phải gây ra
bệnh tim mạch.
Chất
béo bão hòa => Cholesterol => Bệnh tim mạch
Có
một con số khổng lồ những nghiên cứu dịch tễ học
cho thấy không có mối tương quan nào giữa việc ăn chất
béo bão hòa, nồng độ cholesterol và bệnh tim mạch. Hãy
thử xem xét một vài nghiên cứu trong số đó, không phải
vì tôi nghĩ rằng những nghiên cứu dịch tễ học là
tuyệt vời, mà bởi vì những kẻ ủng hộ Giả thuyết
Chất béo rất thích dẫn ra các nghiên cứu dịch tễ học.
Đầu tiên là một loạt các nghịch lý: Nghịch lý Pháp,
nghịch lý Hy Lạp, nghịch lý Đông Phi, nghịch lý Thụy
Sĩ, nghịch lý đảo Thái Bình Dương. Đó là những nước
có mức tiêu thụ chất béo bão hòa cao, nhưng tỷ lệ mắc
bệnh tim thấp. Pháp có mức độ tiêu thụ vào loại cao
nhất – người dân Pháp tiêu thụ lượng bơ nhiều gấp
bốn lần rưỡi người Mỹ chẳng hạn – nhưng tỷ lệ
bệnh tim mạch ở người Pháp thấp hơn nhiều. Bộ tộc
Masai ở Kenya ăn một chế độ ăn gần như hoàn toàn là
thịt, sữa và tiết. Trung bình, những chiến binh trẻ
người Masai ăn 300 gam chất béo động vật mỗi ngày. Thế
nhưng nồng độ cholesterol của họ thuộc vào loại thấp
nhất trên thế giới – trung bình dưới 160 – và bệnh
tim mạch là hoàn toàn không nghe nói đến. Khi khám nghiệm
tử thi, các dấu hiệu xơ vữa động mạch cũng không có.
Dựa trên những kết quả này, George Mann, người đã
nghiên cứu bộ tộc Masai, tuyên bố Giả thuyết Chất béo
là “bước đi lạc hướng lớn nhất của ngành y tế
cộng đồng trong thế kỷ này … trò lừa bịp lớn nhất
trong lịch sử ngành y.”
Một
nghiên cứu về bộ tộc Samburu ở Uganda cho những kết
quả tương tự – không có bệnh tim hay nồng độ
cholesterol cao mặc dù họ ăn 400 gam mỡ động vật mỗi
ngày. Họ cũng không hề có bệnh thấp khớp, thoái hóa
khớp hay huyết áp cao.
Một
nền văn hóa mục đồng khác ở châu Phi là những người
Kalenjin ở Kenya. Chế độ ăn uống của họ bao gồm chủ
yếu là sữa tươi nguyên chất và sữa lên men. Không
những họ không hề có các bệnh mãn tính và thoái hóa,
họ còn là những vận động viên chạy nổi tiếng thế
giới. “Các vận động viên từ bộ lạc ba triệu người
này đã giành được 40% tổng số các giải thưởng quốc
tế cao nhất trong môn chạy đường dài của nam.” Một
người Kalenjin đã về nhất giải marathon Boston cả thảy
bốn lần kể từ năm 1988. Ron Schmid gọi đây là “dấu
hiệu của những sức mạnh tự nhiên sâu sắc trong cơ
thể.”
Một
nghiên cứu dịch tễ học khác khám phá ra nghịch lý đảo
Thái Bình Dương. Dừa là thức ăn chính của người dân
đảo Pukapuka và Tokelau, và dầu dừa còn chứa nhiều chất
béo bão hòa hơn mỡ động vật. Cư dân trên hai hòn đảo
nói trên lấy 35% và 55%, tương ứng, lượng calo của họ
từ chất béo bão hòa ở dừa. Bệnh tim mạch hoàn toàn
vắng mặt ở đây, cũng như các bệnh thoái hóa nói
chung. Trích dẫn lời tiến sĩ Malcolm Kendrick: “Tôi chỉ
muốn hỏi, bạn cần bao nhiêu nghịch lý nữa để nhận
ra rằng nghịch lý duy nhất là chính giả thuyết rằng
chất béo gây ra bệnh tim?”
Những
người Nhật Bản? Họ đã tăng lượng tiêu thụ chất
béo nói chung và chất béo động vật nói riêng 250% kể
từ năm 1961 – và bây giờ họ là một trong những dân
tộc sống lâu nhất trên thế giới. Đột quỵ là nguyên
nhân tử vong hàng đầu trong những năm 1960, nhưng cả số
ca đột quỵ và tỷ lệ tử vong từ đột quỵ đều giảm
nhanh chóng từ năm 1960 đến năm 1975. Có sự thay đổi
nào trong chế độ ăn trong khoảng thời gian này không?
Có. Sự tiêu thụ protein và chất béo động vật gia tăng
đáng kể, do sự thịnh vượng kinh tế trong thời gian
này. Nồng độ cholesterol trong máu cũng tăng, trong khi
huyết áp và số ca đột quỵ giảm xuống. Cụ thể hơn
nữa, các nhà nghiên cứu Nhật Bản theo dõi 3700 người
từ năm 1984 đến năm 2001, và những người ăn nhiều mỡ
động vật nhất có “nguy cơ tử vong do đột quỵ thấp
hơn 62% so với mức trung bình trong nhóm.”
Muốn
nữa không? Một cuộc khảo sát hơn 40.000 người Nhật
Bản cho thấy rằng trong khoảng thời gian 16 năm, “những
người ăn nhiều trứng, sữa và cá nhất có nguy cơ đột
quỵ 28% ít hơn những người ăn ít nhất.”
Rồi
đến Ấn Độ, nơi mà tỷ lệ bệnh tim mạch đã được
kiểm tra trên hơn một triệu người đàn ông. Tỷ lệ
bệnh tim mạch cao nhất là ở Mandras, miền nam Ấn Độ.
Tỷ lệ thấp nhất là ở Punjab, miền bắc Ấn Độ. Sự
khác biệt trong chế độ ăn uống của họ? Ở thành phố
nhiều bệnh tật Mandras, lượng chất béo tiêu thụ ít
hơn và chủ yếu là dầu thực vật không bão hòa đa. Ở
thành phố khỏe mạnh hơn Punjab, các sản phẩm sữa cung
cấp chất béo, chỉ có 2% đến từ chất béo không bão
hòa đa. Những người đàn ông Punjab được chất béo bão
hòa bảo vệ “có nguy cơ tử vong do bệnh tim thấp hơn 7
lần so với những người ở Mandras,” và tuổi thọ nói
chung của họ cao hơn 8 năm.
Và
còn Trung Quốc nữa. Có một huyền thoại kỳ quặc và
dai dẳng trong số những người quan tâm đến sức khỏe
bản thân ở phương Tây rằng người Trung Quốc không bị
bệnh tim mạch. Họ cho rằng lý do những người Trung Quốc
khỏe mạnh là do họ ăn rất nhiều gạo với rau, và rất
ít protein và chất béo, và vì vậy đó là bằng chứng
sống về sự đúng đắn của huyền thoại ăn chay. Tiến
sĩ Eades viết:
Tuy
nhiên, sự thật của vấn đề là những người Trung Quốc
thực sự có bệnh tim mạch, và rất nhiều là đằng
khác. Tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch của nam giới ở
cả nông thôn và thành thị Trung Quốc là gần như không
khác chút nào so với tỷ lệ của nam giới ở Mỹ, trong
khi tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch của nữ giới ở cả
nông thôn và thành thị Trung Quốc cao hơn nhiều so với
nữ giới ở Mỹ... Quan điểm cho rằng người Trung Quốc
không có bệnh tim mạch là một thứ giống như huyền
thoại ma cà rồng – nó cứ bám dai dẳng trong cộng đồng
mà không chịu mất đi. Câu chuyện hoang đường rằng một
chế độ ăn ít chất béo, nhiều carbohydrate là tốt cho
sức khỏe cứ thế sống mãi trong cộng đồng.
Sự
khác biệt giữa bệnh tim mạch ở Trung Quốc và bệnh tim
mạch ở Mỹ chỉ là hình thức nó biểu hiện. Ở Trung
Quốc, nó là đột quỵ; ở Mỹ, nó là nhồi máu cơ tim.
Đối với nam giới thành thị ở Trung Quốc, tỷ lệ nhồi
máu cơ tim chỉ bằng khoảng một nửa nam giới Mỹ, nhưng
tỷ lệ đột quỵ của họ cao gần gấp sáu lần. Với
nữ giới thành thị ở Trung Quốc, tỷ lệ nhồi máu cơ
tim bằng khoảng ¾ tỷ lệ ở Mỹ, nhưng tỷ lệ đột
quỵ của họ gấp khoảng năm lần.
Thế
đã đủ chưa? Ai biết được còn điều gì có liên quan
ở những nước tận bên kia thế giới ấy, bạn có thể
cố cãi. Tốt thôi, chúng ta hãy nhìn vào Hoa Kỳ.
Trong
vòng 15 năm qua, sự tiêu thụ chất béo ở Hoa Kỳ đã
giảm gần 25% do chiến dịch tuyên truyền không mệt mỏi
của ngành y tế chính thống và việc các công ty thực
phẩm sẵn lòng tạo ra một con số vô tận những loại
thực phẩm không phải là thực phẩm làm từ những thứ
chất béo không phải là chất béo: những thứ dầu thực
vật không bão hòa đa mà họ phải biến đổi về mặt
hóa học để có thể khiến chúng được chấp nhận bởi
người tiêu dùng vốn vẫn còn nhớ mùi vị của chất
béo bão hòa con người vẫn ăn từ trước tới nay.
25%
là một sự thuyên giảm lớn. Bạn có trở nên khỏe mạnh
hơn không? Hay bạn có nhận thấy tỷ lệ người mắc
những căn bệnh thường bị đổ cho các thực phẩm từ
động vật tăng lên đến mức chưa từng thấy từ trước
tới nay và vẫn còn tăng nữa?
Bệnh
tiểu đường loại 2 đã tăng hơn 10 lần. Con số tử
vong vì bệnh tim, sau hơn 10 năm suy giảm, tăng trở lại
từ năm 1992 và vẫn gia tăng từ đó đến giờ. Sự gia
tăng của bệnh tim mạch có thể được thấy một cách
chính xác trong con số bệnh nhân ra viện với chẩn đoán
đó. Theo Hiệp hội Tim mạch Mỹ, con số này đã tăng 25%
kể từ năm 1976. Tỷ lệ tai biến mạch máu não đang gia
tăng, và ung thư vẫn tiếp tục gia tăng không ngừng nghỉ
với những loại ung thư thường bị đổ cho việc ăn
nhiều chất béo – ung thư vú và tuyến tiền liệt –
tăng mạnh nhất.
Một
số chuyên gia đã nhận ra, và thậm chí công khai thừa
nhận, rằng cuộc thí nghiệm khổng lồ về dinh dưỡng
áp đặt lên dân chúng Mỹ là một thất bại hoàn toàn.
William Willett từ khoa Y tế Cộng đồng của trường
Harvard đã nói, “Ăn ít chất béo đã trở thành như một
thứ tôn giáo. Nhưng lúc đầu nó chỉ là một giả
thuyết.” Chúng ta đã làm điều họ bảo – ăn ít chất
béo đi, nhiều carbohydrate hơn – và đã chuốc lấy nhiều
bệnh tật hơn.
Hay
nhìn vào nghiên cứu tim mạch Framingham nổi tiếng. Bắt
đầu từ năm 1948 với việc theo dõi sức khỏe của 5.000
người dân của một vùng ngoại ô ở Boston, nghiên cứu
này tìm cách kiểm tra Giả thuyết Chất béo bằng cách đo
nồng độ cholesterol trong máu và theo dõi bệnh tim mạch.
Nghiên cứu này đáng được đọc vì nó là một bài học
đáng giá về chối bỏ sự thật. Ví dụ, dữ liệu
nghiên cứu cho thấy sự thuyên giảm nồng độ cholesterol
ở những người hơn 50 tuổi có liên quan đến tỷ lệ
tử vong nói chung và tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch.
“Tương ứng với sự thuyên giảm 1 mg/dl mỗi năm trong
14 năm đầu của cuộc nghiên cứu là sự gia tăng 14%
trong tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch và 11% trong tỷ lệ
tử vong nói chung trong 18 năm tiếp sau đó.” Vậy mà
nghiên cứu này được những người ủng hộ Giả thuyết
Chất béo dẫn ra để chứng minh mối liên hệ giữa nồng
độ cholesterol cao và bệnh tim mạch.
Thế
còn vai trò của chất béo trong nghiên cứu Framingham? Tiến
sĩ William Castelli, giám đốc dự án, đã viết công khai
rằng “Ở Framingham, một đối tượng ăn càng nhiều
chất béo bão hòa, ăn càng nhiều cholesterol, ăn càng nhiều
calo bao nhiêu thì nồng độ cholesterol trong máu càng thấp
bấy nhiêu... Chúng tôi thấy rằng những người ăn nhiều
cholesterol nhất, ăn nhiều chất béo bão hòa nhất, ăn
nhiều calo nhất là những người ít béo nhất và khỏe
mạnh nhất.”
*
* * * * *
Thôi
đừng quan tâm đến các nghiên cứu dịch tễ học làm
gì. Đằng nào thì chúng ta cũng chẳng thích chúng. Cái
chúng ta thực sự cần là một nghiên cứu có kiểm soát
nghiêm ngặt. Anthony Colpo mô tả một nghiên cứu lâm sàng
hoàn hảo sẽ là thế nào:
Một
thử nghiệm hoàn hảo sẽ phải so sánh những đối tượng
với giới tính, tuổi tác và tình trạng sức khỏe tương
tự nhau, được lựa chọn một cách ngẫu nhiên để ăn
hai chế độ ăn uống giống nhau về mọi mặt, ngoại trừ
việc một nhóm có lượng chất béo bão hòa trong chế độ
ăn cao một cách đáng kể (nhóm đối chiếu), trong khi
nhóm kia có lượng chất béo bão hòa trong chế độ ăn
giảm một cách đáng kể (nhóm điều trị). Lý tưởng
nhất, thử nghiệm này phải là che giấu hai chiều
(double-blind), nghĩa là cả những nhà nghiên cứu theo dõi
cuộc thử nghiệm và những người được theo dõi đều
không biết ai ở trong nhóm điều trị và ai ở trong nhóm
đối chiếu. Đây là một biện pháp để phòng ngừa sự
thiên vị từ phía những nhà nghiên cứu và việc lòng
tin của những người được theo dõi vào một trong hai
chế độ ăn có ảnh hưởng đến kết quả.
Trên
thực tế, những nghiên cứu như vậy đã được tiến
hành, và tiến hành nhiều lần, nhằm cố gắng chứng
minh mối liên hệ giữa chất béo bão hòa, cholesterol và
bệnh tim mạch. Một số trong đó đáp ứng những tiêu
chuẩn nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt; trong khi một số
khác phải được đọc với cặp mắt thận trọng và có
hiểu biết. Nghiên cứu đầu tiên được tiến hành bởi
Lester M. Morrison vào năm 1946. Nó được thiết kế đặc
biệt để tìm hiểu mối quan hệ giữa việc giảm ăn
chất béo và số tử vong do bệnh tim mạch. Một trăm
người đã từng bị nhồi máu cơ tim được chia làm hai
nhóm. Nhóm điều trị được ăn một chế độ ăn ít
calo, ít chất béo, nhiều protein bổ sung bởi canxi, phốt
pho, men bia và mầm lúa mì. Sau 8 năm, 22 người trong nhóm
điều trị đã qua đời trong khi 38 người trong nhóm đối
chiếu qua đời.
Hy
vọng bạn có thể thấy vấn đề không ổn với nghiên
cứu này. Đây là một chế độ can thiệp nhiều mặt, và
không có cách nào để biết cái nào trong số đó đã
mang lại kết quả tốt. Lượng protein cao hơn? Cái đó đã
được cho thấy có liên hệ với suy giảm trong tỷ lệ
bệnh tim mạch. Một số thành viên trong nhóm điều trị
giảm cân và chỉ riêng việc đó thôi cũng cải thiện
sức khỏe tim mạch. Chúng ta biết rằng các loại vitamin
B – có trong cả men bia và mầm lúa mì – làm giảm nồng
độ homocysteine, một chất gây xơ vữa động mạch.
Selenium là một chất chống ôxi hóa có thể mang lại lợi
ích cho các bệnh nhân tim mạch, và men là một nguồn
selenium tốt. Bất cứ cái nào trong các tham biến này cũng
có thể tạo ra kết quả quan sát được, và không có
cách nào biết được cụ thể là cái nào cho đến khi
từng tham biến được kiểm soát. Vì vậy khi những người
ủng hộ Giả thuyết Chất béo đưa ra nghiên cứu này như
là bằng chứng – và một số đã làm như vậy – bạn
đã được trang bị kiến thức để nhìn rõ vấn đề.
Nghiên
cứu lâm sàng đầu tiên về Giả thuyết Chất béo được
thiết kế mang tính che giấu hai chiều, lựa chọn ngẫu
nhiên giữa các đối tượng và có kiểm soát các tham
biến – nói một cách khác, nghiên cứu đầu tiên đáng
được nhắc tới – được tiến hành ở London, Anh vào
năm 1965. Các nhà nghiên cứu lấy 80 người tình nguyện
và thay thế chất béo bão hòa trong thực đơn của họ
bằng dầu ngô. Lưu ý: chất béo là thứ duy nhất khác
nhau giữa hai nhóm. Và kết quả? Những người ăn dầu
ngô có nồng độ cholesterol trong máu giảm đi trung bình
23 mg/dl. Họ cũng chết nữa. Có nhiều “người chết vì
bệnh tim mạch và bệnh tật nói chung” trong nhóm điều
trị hơn là trong nhóm đối chiếu. Một nhóm khác được
dùng dầu ô liu với kết quả cũng gần tồi tệ như vậy.
Trích lời các bác sĩ trong nhóm nghiên cứu: “dựa trên
kết quả của cuộc thử nghiệm này, chúng tôi không thể
khuyến nghị dùng dầu ngô trong quá trình điều trị bệnh
tim mạch. Có rất nhiều khả năng nó không mang lại lợi
ích, và có thể còn có hại nữa.” Giá mà có ai nghe lời
họ nói.
Thử
nghiệm đầu tiên về Giả thuyết Chất béo tiến hành ở
Hoa Kỳ được gọi là Câu lạc bộ Chống bệnh tim mạch.
Công bố vào năm 1966. nghiên cứu này so sánh 1100 người
đàn ông ăn “Chế độ ăn cẩn trọng” với một nhóm
đối chiếu ăn bình thường. Chế độ ăn cẩn trọng
thay thế chất béo bão hòa bằng chất béo không bão hòa
đa. Những người ăn chế độ ăn đó có nồng độ
cholesterol giảm từ mức ban đầu là 260 xuống trung bình
là 225. Đây là chi tiết mà bản tóm tắt trưng ra. Bạn
có thể nghĩ rằng nghiên cứu này có một kết thúc tốt
đẹp – trừ phi bạn đọc tiếp. Chín tháng sau, một bài
viết thứ hai tiết lộ rằng tám người trong nhóm ăn
uống cẩn trọng chết vì nhồi máu cơ tim, trong khi không
một ai trong nhóm đối chiếu chết vì bệnh tim. Thêm nữa,
tổng số người chết vì bệnh tật trong nhóm ăn uống
cẩn trọng là 26; trong khi chỉ 6 người trong nhóm đối
chiếu chết. Những cái chết này bị bỏ qua trong những
phân tích của các tác giả. Ngoài việc chứng minh sự
sai lầm của Giả thuyết Chất béo, điều này còn hé lộ
cho chúng ta thấy tính vô nhân đạo của khoa học và cái
tôi của những người tham gia trong đó, một điều mà
nhiều người trong chúng ta không muốn biết.
Có
lẽ bạn không cần phải đọc tất cả các nghiên cứu,
hay tất cả các cuốn sách chỉ ra những sai lầm của các
nghiên cứu đó. Có lẽ chỉ cần biết có những dân tộc
ăn 80% lượng calo của họ dưới dạng chất béo bão hòa
mà không có chút bệnh tim mạch nào là đủ. Có lẽ ở
sâu thẳm trong tâm trí bạn, có một nơi mà tình yêu là
thức ăn và thức ăn là tình yêu, và bạn vẫn có thể
nhìn thấy cái bếp mà bà nội bạn vẫn nấu. Bạn vẫn
luôn biết là bà đúng: bơ là tốt, bơ thực vật
(margarine) là một sự nhục nhã cho bữa ăn. Bạn đã từng
ăn những thức ăn thực sự, nấu bởi một người phụ
nữ biết con cháu bà cần gì bởi vì mẹ của bà cũng
biết và truyền lại những tri thức đó. Một ai đó đã
cho bạn ăn thức ăn thực sự. Hãy nhớ lại hương vị
tốt lành của nó.
Cũng
có thể nó không dễ dàng như thế. Chúng ta đang bị bao
vây bởi tiếng nói của các phương tiện truyền thông
nhắc chúng ta không được phép quên rằng cơn thèm ăn
của chúng ta là nguy hiểm, rằng sự khao khát những thức
ăn thực sự của cơ thể chúng ta là một kẻ địch mà
chúng ta phải chống lại. Cuộc chiến đó sẽ không có
hồi kết, bởi vì sự tham lam của các công ty thực phẩm
là vô tận. Sẽ không bao giờ có chỗ trong các bản báo
cáo tài chính hàng năm của họ cho những nguồn thực
phẩm địa phương thực sự tốt lành cho cơ thể, cũng
như không bao giờ có chỗ cho những cái chết không đúng
chỗ trong các bản tóm tắt khoa học của họ.
Tốt nhưng bản dịch nhiều chỗ nhầm lẫn. Nên đọc ko logic.
Trả lờiXóa