Ngoại trừ chất xơ, tất cả carbohydrat đều biến thành đường sau khi tiêu hóa |
Tác giả: Nora Gedgaudas
Nguồn: Primal Body, Primal Mind
Cơ thể nguyên thủy, tâm trí nguyên thủy
Chương 13: Vai trò của carbohydrat trong cơ thể
Lượng đường trắng tiêu thụ hàng năm ở Hoa Kỳ:
- 1750: 1,8 kg một người, một năm
- 1850: 9,1 kg một người, một năm
- 1994: 54 kg một người, một năm
- 1996: 73 kg một người, một năm
Theo Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế
của Bộ Nông nghiệp Mỹ,
lượng đường tiêu thụ trên toàn cầu tiếp tục gia
tăng khoảng 2% mỗi năm, và dự tính vào năm 2007 sẽ đạt
khoảng 154 triệu tấn. Lưu ý: Con số này chưa bao
gồm các loại đường hóa học công nghiệp khác như High
Fructose Corn Syrup (HFCS) (đường hóa học làm từ ngô có
nồng độ fructose cao).
HFCS hiện được ước tính là
nguồn calo hàng đầu trong chế độ ăn người Mỹ!
Sự gia tăng trong tỷ lệ béo phì, bệnh tim, ung thư và
tiểu đường trùng khớp hầu như hoàn toàn với sự ra
đời của HFCS gần 30 năm trước. Trung bình mỗi người
bây giờ tiêu thụ 150 gam đường mỗi ngày. Một
nửa trong số đó là fructose (đường tinh được tạo
thành từ một nửa glucose và một nửa fructose). Con số
này gấp 3 lần mức có thể gây ra rối loạn sinh hóa
trong cơ thể. Cơ thể chúng ta hoàn toàn không có khả
năng tự vệ chống lại cơn lũ này. 90% tiền mua thực
phẩm của dân Mỹ hiện nay được dùng để mua thực
phẩm chế biến sẵn, và HFCS (loại đường độc hại
nhất trong tất cả) có mặt trong gần như tất cả mọi
sản phẩm thực phẩm chế biến sẵn. Xin nhớ cho là
những con số đường tiêu thụ này là trung bình và
nhiều người tiêu thụ hơn gấp đôi con số đó. Dựa
trên ước tính mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ năm
2011, một người Mỹ trung bình tiêu thụ 12 thìa đường
mỗi ngày, tương đương với gần 2 tấn đường
trong cả đời (hình dung một cái xe tải cá nhân loại
lớn chở đầy đường). Nếu bạn muốn có một hình ảnh
về lượng đường tiêu thụ trung bình trong một năm,
hình dung một cái xe đẩy một bánh loại lớn, đầy có
ngọn.
Tất cả các con số trên đều
chưa bao gồm lượng đường trong chế độ ăn của chúng
ta từ những nguồn tinh bột khác - bánh mì, mì ống,
ngũ cốc, khoai tây, gạo - hay những cái gọi là đường
“tự nhiên” như mật ong, mật, hay đường chuyển hóa
từ lượng protein ăn vào nhiều hơn mức cần thiết của
cơ thể. Khi tất cả chúng thực sự được cộng lại,
chúng ta sẽ phải kinh ngạc tại sao nạn dịch béo phì,
tiểu đường, ung thư và bệnh tim (đó mới chỉ là một
số căn bệnh liên quan đến đường) lại không tồi tệ
hơn nhiều so với mức độ hiện nay. Tổ tiên của chúng
ta thậm chí trong mơ cũng không thể hình dung được
sự điên rồ này.
Tất cả các dạng carbohydrat
không phải chất xơ (từ ngũ cốc, gạo, khoai tây và
các dạng tinh bột khác) cùng với đường trắng và các
loại đường hóa học công nghiệp (như HFCS) đều trở
thành đường một khi chúng được chuyển hóa bởi cơ
thể. Tỷ lệ carbohydrat trong chế độ ăn của con
người đã gia tăng một cách trái tự nhiên và theo cấp
số nhân từ những gì mà tổ tiên thời kỳ đồ đá cũ
của chúng ta từng biết. Cái này bao gồm cả tinh bột
hay carbohydrat dạng phức, ngoại trừ chất xơ không tiêu
hóa được, và carbohydrat dạng đơn trong hoa quả. Hoa quả
dại rất khác so với những loại được con người trồng
hiện nay (thường chua hơn là ngọt, nhỏ hơn nhiều, ít
đường hơn, chứa rất nhiều chất xơ), và chỉ có theo
mùa.
Tất cả các dạng carbohydrat không phải chất xơ đều kích thích tiết ra insulin, một hooc-môn dẫn đến sự tích trữ mỡ, và gây tổn hại cho cơ thể và não bộ thông qua một quá trình gọi là glycation (đường trong máu tác dụng với protein và chất béo khiến chúng bị hủy hoại). Ví dụ về những thực phẩm carbohydrat gây ra quá trình này bao gồm bánh mì, mì ống, gạo, khoai tây, hoa quả khô, nước quả, kẹo, sô-cô-la, rượu bia, và thậm chí là hầu hết hoa quả tươi (chỉ ngoại trừ một số loại như quả bơ).
Lượng đường tiêu thụ trung bình mỗi người mỗi ngày ở Mỹ từ 1970 - 2005 |
Fructose, loại đường đơn trong
hoa quả, thường không ảnh hưởng đến insulin mấy (trừ
khi nó ở trong HFCS), nhưng nó gây ra glycation cực kỳ
mạnh, dẫn đến rất nhiều tổn hại. Nó cũng dễ làm
tăng nồng độ acid uric (ảnh hưởng đến bệnh gút). Lưu
ý rằng carbohydrat chúng ta đang nói đến đây không bao
gồm các loại rau xanh nhiều chất xơ. Những rau này rất
tốt và hầu như không có đường hay tinh bột.
Cơ thể chúng ta cực kỳ chú
trọng việc giữ nồng độ glucose trong máu trong một
khoảng hẹp. Giá trị thực tế của khoảng này có thể
thay đổi tùy theo từng người, và tùy thuộc vào việc
họ lệ thuộc vào glucose để lấy năng lượng đến mức
nào và họ bị kháng insulin đến đâu.
Thực tế là có nhiều loại
hooc-môn được thiết kế để nâng nồng độ glucose trong
máu và chỉ có một hooc-môn để giảm nó. Đấy là vì
carbohydrat thường là thứ cực kỳ hiếm hoi trong chế độ
ăn nguyên thủy, và do vậy, tổ tiên chúng ta cực kỳ
hiếm khi gặp phải trường hợp “khẩn cấp” cần hạ
nồng độ glucose, ngược hẳn với bây giờ. Tuy nhiên,
khả năng dùng hooc-môn để nâng nồng độ glucose trong máu
trong trường hợp khẩn cấp là tối cần thiết cho sự
sống còn của tổ tiên chúng ta.
Nồng độ glucose trong máu tối
ưu đối với một người khỏe mạnh, nhạy cảm với
insulin và leptin thường không quá 70 đến 85 mg/dL (mà
không hề có triệu chứng hạ đường huyết nào). Các
bằng chứng khoa học hiện có từ các nghiên cứu về
tuổi thọ và thử nghiệm hạn chế calo đều chỉ ra
khoảng này là tối ưu. Một số nghiên cứu xác định
khoảng trung bình hiện nay là thường từ 85 đến 100
mg/dL. Nếu nồng độ đường huyết khi đói vượt quá
100 mg/dL, riêng điều này đã báo hiệu cơ thể có vấn
đề. Những nghiên cứu về tuổi thọ mới nhất cho thấy
khả năng giữ nồng độ glucose trong máu khi đói trong
khoảng 70 đến 85 mg/dL mà không có triệu chứng hạ đường
huyết, đồng thời không để cho nồng độ glucose tăng
quá 40 mg/dL sau khi ăn có tác dụng kích hoạt các gen
sirtuin (gen sống lâu của chúng ta).
Một nghiên cứu theo dõi gần
2000 người đàn ông trong khoảng thời gian 22 năm cho kết
quả đáng kinh ngạc rằng những người có nồng độ
glucose lúc đói vượt quá 85 mg/dL có nguy cơ tử
vong do bệnh tim mạch cao hơn 40 phần trăm so với
những người còn lại. Các nhà nghiên cứu thực hiện dự
án này viết rằng “việc nồng độ glucose lúc đói nằm
gần giá trị trên của khoảng bình thường là một yếu
tố độc lập quan trọng dự báo khả năng tử vong do
bệnh tim mạch ở những người trung niên không bị tiểu
đường và bề ngoài khỏe mạnh.”
Cái gọi là trạng thái hạ đường
huyết là một khái niệm mang tính tương đối. Nồng độ
glucose lúc đói ở vào khoảng 90 hay 100 có thể được
coi là hạ đường huyết nghiêm trọng và thậm chí có
thể gây ra co giật ở một người quen với nồng độ
đường huyết tầm 400 mg/dL, như những người bị tiểu
đường chẳng hạn. Một người quen với nồng độ đường
huyết trong khoảng 85 đến 100 mg/dL có thể cảm thấy
triệu chứng bắt đầu hạ đường huyết (nặng đầu,
dễ cáu kỉnh, run rẩy, mệt mỏi) ở 70 mg/dL. Một người
khỏe mạnh thường xuyên giữ nồng độ glucose và insulin
thấp có thể có nồng độ glucose không vượt quá 90 hay
100 mg/dL ngay cả sau bữa ăn, và có thể cảm thấy hoàn
toàn thoải mái với nồng độ glucose lúc đói ở 70
mg/dL. Một lần nữa, đây là khái niệm tương đối.
Nguyên tắc chung là bạn càng giữ
được nồng độ glucose trong máu trong điều kiện bình
thường (nghĩa là không cảm thấy các triệu chứng hạ
đường huyết) thấp bao nhiêu, thì sức khỏe của bạn
càng tốt bấy nhiêu.
Những ai muốn có sức khỏe tối
ưu nên giữ trong khoảng 70 đến 85 mg/dL hay thấp hơn nữa.
Khoảng giá trị này tương đương với không quá một
thìa càfe đường, khoảng 5 gam hay 20 kcal. Hãy nhớ rằng
cơ thể rất chú trọng việc giữ nồng độ glucose cần
thiết ở mức thấp nhất vào mọi lúc vì bản chất của
glucose là gây tác hại cho các mô và cơ quan nội tạng
trong cơ thể. Nồng độ glucose cần thiết càng thấp
càng tốt.
Hai lát bánh mì hay một cái bánh
ngọt nhỏ chứa khoảng 6 thìa càfe glucose - sáu lần
lượng bình thường được phép trong máu! Trừ chất xơ
ra, tất cả carbohydrat trong thực phẩm đều được
hấp thụ bởi gan, chuyển hóa thành đường glucose và sau
đó đổ vào mạch máu. Ngũ cốc và khoai tây thậm chí
còn làm tăng nồng độ đường huyết nhanh hơn một thanh
kẹo!
Glucose (và các loại đường
khác) trong máu tự động ôxy hóa và sản sinh ra những
gốc tự do mạnh gây tổn hại cho thành động mạch và
tác dụng với protein tạo thành các sản phẩm glycation
cuối (advanced glycation end products hay AGEs). Người ta đã
biết AGEs làm tăng mạnh quá trình lão hóa của các tế
bào và mô và gây đột biến trong DNA. Thêm vào đó, AGEs
kết hợp với một số thụ cảm trên thành động mạch
gọi là RAGEs và gây ra sưng tấy, làm tồi tệ hơn các
triệu chứng bệnh tim mạch. Một xét nghiệm máu đơn
giản và rẻ tiền có thể đo quá trình glycation ở các
tế bào hồng huyết cầu gọi là xét nghiệm
hemoglobin-A1c, và nó có thể được dùng để theo dõi
chính xác các xu hướng glycation cùng với thời gian. Chỉ
đo nồng độ đường huyết lúc đói không đủ chính xác
để theo dõi điều này.
Glucose là cái làm chúng ta già
đi. Trớ trêu thay là thứ mà chúng ta cần để tồn tại,
để nuôi dưỡng các tế bào hồng huyết cầu và cung cấp
năng lượng cho chúng thông qua quá trình kỵ khí lại
chính là thứ làm chúng ta lão hóa và cuối cùng giết
chết chúng ta. Chúng ta phải có một lượng đường nhất
định để nuôi dưỡng các tế bào hồng huyết cầu,
nhưng không cần nhiều lắm để nuôi não bộ như mọi
người vẫn nghĩ. Nhớ là não của chúng ta có thể hoạt
động rất tốt dựa trên ketone, một sản phẩm chuyển
hóa từ chất béo - trên thực tế tốt hơn so với dùng
đường.
Ketone là một nguồn năng lượng
ổn định, đáng tin cậy và dồi dào hơn nhiều cho não
bộ và các cơ quan nội tạng của chúng ta sử dụng. Tuy
nhiên, các tế bào hồng huyết cầu chỉ có thể dùng
đường (glucose) làm năng lượng thông qua quá trình kỵ
khí để bảo tồn món hàng quý giá mà chúng chuyên trở
là ôxy. Do vậy chúng dùng đường thay vì chất béo.
Không may là cuối cùng chúng ta
phải trả giá cho một thứ không thể tránh khỏi. Sự
lão hóa giờ được khoa học hiểu là quá trình glycation
ở tất cả các mô, kể cả não bộ. Các bệnh mãn tính
liên quan đến tuổi già và một số dạng suy thoái chức
năng thần kinh có thể có liên quan trực tiếp đến quá
trình glycation này. Chúng ta càng giữ nồng độ đường
huyết được thấp bao nhiêu thì quá trình này càng xảy
ra chậm hơn bấy nhiêu và chúng ta càng sống được lâu
hơn, khỏe mạnh hơn và ít bệnh tật khi già bấy nhiêu.
Hậu quả rõ rệt nhất của quá
trình glycation có thể được thấy ở những người bị
tiểu đường toàn diện. Điều trớ trêu là, dựa trên
những gì khoa học đã hiểu về quá trình lão hóa, tất
cả chúng ta đều có thể bị coi là bị tiểu đường -
chỉ có điều ở những mức độ khác nhau. Và các bằng
chứng hiện nay cho thấy chỉ một sự gia tăng nhỏ trong
nồng độ glucose bình thường lúc đói cũng làm tăng đáng
kể nguy cơ bệnh tật.
Nhìn nhận vấn đề như vậy có
thể dễ làm thay đổi quan điểm và hy vọng là thói quen
ăn uống của bạn hơn. Trong một nghiên cứu trên 33.230
người đàn ông, nồng độ glucose cao làm tăng 38 phần
trăm tỷ lệ tử vong do ung thư đường tiêu hóa. Các
nghiên cứu khác chỉ ra mức độ gia tăng trong tỷ lệ bị
tiểu đường còn cao hơn nữa! Điều rõ ràng và không
thể chối cãi được từ những hiểu biết hiện nay về
quá trình lão hóa và đột biến DNA (dẫn đến ung thư)
là chúng ta càng giữ được nồng độ đường huyết và
insulin thấp bao nhiêu thì chúng ta càng sống lâu, khỏe
mạnh hơn và quá trình già đi chậm hơn bấy nhiêu. (Lưu
ý: Glycation và các tổn hại do nó gây ra được tích
tụ lại. Do vậy mỗi thìa đường, mỗi miếng thức ăn
chứa tinh bột chúng ta ăn đều đóng góp vào đó. Mỗi
mẩu kẹo, bánh, bánh mì hay khoai tây, mỗi thìa mật ong,
mỗi giọt nước ngọt đều làm ngắn đi cuộc đời của
bạn - một điều đáng để suy nghĩ. Mặc dù một số
hậu quả của glycation có thể được phục hồi và đảo
ngược, một số khác không thể. Bạn có thể lựa chọn
cái gì là quan trọng.)
Một hậu quả nữa của việc ăn
carbohydrat thường xuyên là nấm candida phát triển ngoài
kiểm soát. Điều này là cực kỳ phổ biến ở dân chúng
Mỹ do ăn chế độ ăn nhiều carbohydrat. Nó đặc biệt
phổ biến ở những bệnh nhân tiểu đường và gây ra
bởi sự mất cân bằng vi khuẩn trong ruột, sử dụng
thuốc kháng sinh, chế độ ăn uống kém và một số loại
hooc-môn bổ sung. Hầu hết những người có nấm candida
phát triển ngoài kiểm soát cũng bị dị ứng với nấm
mốc. Các triệu chứng của nấm phát triển ngoài kiểm
soát bao gồm chảy nước mũi thường xuyên, viêm xoang,
ngứa hậu môn, đau đầu do viêm xoang, khó tiêu, đầy
hơi, ợ nóng, nặng đầu, lưỡi trắng, nấm âm đạo, đi
tiểu thường xuyên, táo bón hoặc tiêu chảy, ngứa phát
ban và thèm đồ ăn ngọt hay nhiều tinh bột như bánh mì,
rượu bia và pizza. Để chữa nấm candida, thường cần
tránh hoàn toàn các đồ ăn nhiều đường hay tinh bột
cùng các loại pho-mát, kem chua, thực phẩm lên men (bao gồm
cả nước chấm đậu tương), và dấm.
Mối Quan hệ giữa Insulin và
Đường huyết
Sau một bữa ăn, nồng độ đường
huyết tăng cao kích thích sự giải phóng insulin nhằm
nhanh chóng loại bỏ glucose khỏi máu. Lượng glucose không
cần dùng ngay lập tức - như là khi cần để chạy trốn
khỏi một con sư tử đói chẳng hạn - chuyển hóa nhanh
chóng thành glycogen (dự trữ trong gan và các mô cơ để
dành cho những lúc nhu cầu năng lượng tăng cao đột
ngột), hoặc thành triglyceride. Triglyceride được tạo
thành nhờ một enzyme gọi là glycerol-3-phosphate
dehydrogenase và dự trữ dưới dạng mỡ trong cơ thể.
Chúng ta cần hiểu một điểm cơ
bản: tổ tiên xa xôi của chúng ta không bao giờ cần
khẩn cấp hạ nồng độ đường huyết. Hiểu được
điều này là rất quan trọng. Và còn điều này nữa: Một
điều mà thậm chí nhiều bác sĩ cũng không hiểu là chức
năng và mục đích thực sự của insulin không phải
là để kiểm soát nồng độ đường huyết. Chúng ta có
nhiều loại hooc-môn khác được thiết kế nhằm mục đích
kiểm soát nồng độ đường huyết: glucagon, epinephrine,
norepinephrine, cortisone và hooc-môn tăng trưởng. Những
hooc-môn này có nhiệm vụ làm tăng nồng độ đường
huyết khi chúng ta cần.
Mặc dù insulin có làm giảm nồng
độ đường huyết (một cách rất vụng về), nhưng nhiệm
vụ chính của insulin thực ra là để dự trữ các chất
dinh dưỡng thừa phòng khi đói kém và để phối hợp
và điều chỉnh giữa dự trữ năng lượng với tuổi thọ
và chức năng sinh sản. Việc giảm nồng độ đường
huyết chỉ là tác dụng phụ của insulin, một hooc-môn chủ
chốt với những nhiệm vụ quan trọng hơn nhiều. Hiểu
được điều này là rất quan trọng, và đây cũng là một
yếu tố mấu chốt trong những khám phá mới của khoa học
trong việc kéo dài tuổi thọ mà chúng ta sẽ thảo luận
ở các chương sau.
Nhu cầu có nguồn năng lượng
ổn định
Trong việc cung cấp năng lượng
cho bộ não và cơ thể chúng ta, carbohydrat có thể được
so sánh như củi nhóm lửa. Ngũ cốc và các hạt họ đậu
giống như là củi vụn; tinh bột, trong ngũ cốc, khoai
tây, và đường như là giấy báo; và rượu bia có thể
được so sánh như là xăng. Nếu bạn dùng carbohydrat làm
nguồn cung cấp năng lượng chính, bạn sẽ cần tiếp
chất đốt để nuôi ngọn lửa ấy một cách thường
xuyên và đều đặn. Bạn sẽ thèm thứ chất đốt ấy.
Không may là hầu hết mọi người hiện nay đã bắt cơ
thể của họ quen với sự lệ thuộc trái tự nhiên này
bằng việc ăn một chế độ ăn quá nhiều carbohydrat.
Hầu hết, nếu không phải tất
cả, những người nghiện rượu (lấy làm ví dụ điển
hình) có vấn đề nghiêm trọng về hạ đường huyết và
nghiện đường. Những người nghiện rượu hoàn toàn bị
lệ thuộc vào đường và thường xuyên phải tìm đến
những nguồn cung cấp đường nhanh chóng - cồn trong rượu
bia là nguồn cung cấp nhanh nhất. Đây là một lý do tại
sao người ta vẫn nói “một lần nghiện rượu, suốt
đời nghiện rượu”. Đấy là vì trong việc nghiện
rượu, thực ra vấn đề không phải hoàn toàn là về
rượu bia, mà là vấn đề nghiện carbohydrat nghiêm trọng.
Nếu chỉ từ bỏ rượu bia, người đó vẫn còn
vấn đề gốc rễ: nghiện đường. Những buổi gặp mặt
của hội những người cai rượu (Alcoholics Anonymous)
thường có ê hề bánh ngọt và cafe. Mặc dù họ không
uống rượu bia, vấn đề nghiện đường, thường không
được nhận biết, ở những người từng nghiện rượu
vẫn tiếp tục. Những người nghiện rượu thường là
thứ mà tôi gọi là “sinh vật ăn carbohydrat”, ăn chế
độ ăn bao gồm chủ yếu là các thực phẩm giàu
carbohydrat, thường xuyên thèm đồ ngọt, và dựa vào
những chất kích thích như caffeine để giữ nồng độ
đường huyết ở mức cao. Việc thèm đồ ngọt này vẫn
tiếp tục khi họ chỉ kiêng rượu bia, và do đó khiến
họ rất dễ nghiện lại. Một khi việc thèm carbohydrat
và lệ thuộc vào carbohydrat như nguồn năng lượng chính
bị loại bỏ, việc thèm rượu bia cũng sẽ biến mất.
Huấn luyện cho cơ thể dựa vào ketone thay cho đường để
cung cấp năng lượng là chìa khóa cho việc này. Điều
này có nghĩa là loại bỏ đường và tinh bột hoàn toàn
khỏi chế độ ăn.
Với những ai gặp khó khăn trong
việc thích nghi với dùng chất béo làm năng lượng, thuốc
bổ sung như L-glutamine (mà não bộ có thể dùng thay cho
glucose) có thể được dùng như một bước đệm để
giúp não bộ chuyển dần khỏi sự lệ thuộc vào đường
trong khi cơ thể thích nghi với nguồn năng lượng mới
bền vững và ổn định hơn. Một số loại dược thảo
như Gymnema sylvestre có
thể giúp loại trừ cảm giác thèm carbohydrat khi uống
với liều cao, 4 đến 8 gam, ba lần mỗi ngày trong khoảng
một tháng đầu kể từ khi bắt đầu thay đổi chế độ
ăn. Bổ sung các chất dinh dưỡng bị thiếu hụt do chế
độ ăn nhiều carbohydrat hay nghiện rượu cũng là tối
cần thiết cho sự phục hồi của cơ thể.
Bạn có thể
nhận lượng năng lượng lớn trong thời gian ngắn từ
carbohydrat, giống như ngọn lửa bùng lên khi bạn tưới
xăng, nhưng không ai có thể có nguồn năng lượng lâu bền
và ổn định bằng cách đó. Ngay khi ngọn lửa ấy bắt
đầu tàn đi, điều mà bạn không phải đợi lâu, bạn
sẽ lại thèm carbohydrat hay chất kích thích để kéo nó
lên trở lại.
Đây là lý do
tại sao một số chuyên gia dinh dưỡng luôn khuyên bạn ăn
hai tiếng một lần hay ăn “nhiều bữa nhỏ trong suốt
cả ngày”. Nếu bạn phụ thuộc vào đường - và hầu
như tất cả mọi người trong nền văn hóa này đều là
nạn nhân của sự lệ thuộc không cần thiết đó - thì
những bữa ăn nhỏ thường xuyên là cần thiết để giữ
cơ thể trong trạng thái bình thường.
Nếu
bạn từng sưởi ấm nhà bạn bằng lò sưởi đốt củi,
bạn sẽ hiểu sự so sánh dưới đây: Nếu bạn phải đốt
cái lò sưởi ấy bằng giấy, củi vụn hay xăng, bạn sẽ
trở thành nô lệ cho ngọn lửa ấy, và bạn sẽ cần một
núi nhiên liệu liên tục tiếp vào để nuôi sống con
quái vật háu đói ấy. Lúc nào bạn cũng sẽ bận rộn
tiếp nhiên liệu để nuôi ngọn lửa ấy, và bạn sẽ
không còn làm được việc gì khác. Trên thực tế, hầu
hết mọi người trong nền văn hóa này đều bị nô lệ
hóa một cách tương tự, luôn luôn bận tâm đến việc
làm sao để có bữa ăn hay bữa điểm tâm (hay tách cafe)
tiếp theo. Các tập đoàn thực phẩm và nông nghiệp rất
vui lòng duy trì tình trạng nô lệ đó và duy trì lòng tin
rằng glucose là một nguồn năng lượng tối cần thiết
và rằng ăn carbohydrat thường xuyên là quan trọng để
duy trì nồng độ đường huyết ổn định. Điều này
thậm chí được dạy trong các trường y. Nhưng đó là
một điều dối trá. Mẹ Thiên nhiên không ban giờ định
ra cho chúng ta sống theo cách như vậy. Đó là một lối
sống rất không tự nhiên và khó duy trì, đặc biệt khi
bạn nghĩ về việc người nguyên thủy phải liên tục
đấu tranh cho sự sống còn trong một thế giới mà thực
phẩm không phải lúc nào cũng có sẵn. Tổ tiên nguyên
thủy (đặc biệt là thời kỳ băng hà) của chúng ta sẽ
không bao giờ có cơ hội sống sót đến ngày nay nếu
carbohydrat là một loại thực phẩm không thể thiếu được
hay glucose là nguồn năng lượng tối cần thiết vào mọi
lúc. Thiên nhiên không đến nỗi điên rồ hay ngu ngốc
đến như vậy.
Vâng,
bạn có thể sống
trong trạng thái lệ thuộc vào glucose. Hầu hết mọi
người đều sống như vậy. Nhưng ý tưởng rằng chúng
ta phải phụ thuộc
vào đường như là nguồn năng lượng chính chỉ
đúng khi chúng ta bắt cơ
thể phải thích nghi với sự lệ thuộc trái tự nhiên
ấy. Hầu hết mọi người trong nền văn hóa này đều
thích nghi như vậy. Và bạn có thể tiếp tục điều
chỉnh nồng độ đường huyết của bạn suốt cả ngày
bằng cách ăn các bữa ăn nhỏ và bữa điểm tâm một
cách thường xuyên, nhằm giữ cho ngọn lửa ấy cháy ổn
định hơn. Cá nhân tôi có nhiều điều thú vị để làm
hơn là ngồi duy trì ngọn lửa ấy. Đấy là một điều
không cần thiết và nó sẽ
làm bạn già đi nhanh hơn (và khiến bạn tốn nhiều tiền
mua thực phẩm và chăm sóc sức khỏe hơn). Có
một cách sống và ăn uống lành mạnh hơn và tự nhiên
hơn nhiều.
Mỡ
trong thực phẩm, khi không có carbohydrat,
có thể so sánh như là cho một súc gỗ lớn vào cái lò
sưởi đó. Ngọn lửa từ nó sẽ cháy một cách ổn định
và dễ duy trì hơn nhiều. Protein, ăn với lượng vừa
phải, chủ yếu được dùng để sửa chữa và duy trì cơ
thể. Chỉ khi ăn quá nhiều nó mới chuyển thành đường.
Ngọn lửa đều đặn từ mỡ giúp giữ hooc-môn leptin nằm
dưới sự kiểm soát, giữ insulin ở nồng độ thấp và
khiến chúng ta cảm thấy thỏa mãn. Nồng độ đường
huyết, một khi bạn thích nghi với nguồn năng lượng ổn
định này, trở thành một vấn đề nhỏ nhặt không đáng
quan tâm đến. Bạn sẽ được tự do sống cuộc sống
của mình thay vì phải thường xuyên bận tâm về bữa ăn
hay bữa điểm tâm tiếp theo. Bạn có thể duy trì nhiều,
nhiều giờ không cần ăn mà không cảm thấy khó chịu
hay thèm ăn chút nào. Tất nhiên, cuối cùng bạn sẽ cảm
thấy đói nếu bạn không ăn quá lâu. Đó là điều tự
nhiên. Nhưng ngay cả khi đó bạn sẽ không cảm thấy khó
chịu, chóng mặt, váng đầu, mệt mỏi, dễ cáu kỉnh.
Và nó lẽ ra
phải như vậy!
Vấn đề ở
đây của chúng ta là kênh liên lạc không hoạt động
Chỉ ít hơn 1
phần trăm tuyến tụy được dùng cho việc sản xuất
insulin. Nhu cầu insulin quá mức ban đầu có thể dẫn đến
việc độ nhạy của các thụ cảm insulin giảm đi, khiến
ngày càng cần nhiều insulin hơn để làm cùng một việc.
Đấy là cái
được gọi là kháng insulin. Ở thời kỳ đầu của
rối loạn glucose, kháng insulin có thể dẫn đến hạ
đường huyết. Tuy nhiên, cùng với thời gian, các thụ
cảm trên bề mặt các tế bào của chúng ta trở nên ngày
càng ít nhạy cảm với thông điệp của insulin, và kết
quả là bệnh tiểu đường loại 2. Trong những trường
hợp ở giai đoạn cuối, tuyến tụy làm việc quá sức
có thể không còn khả năng đáp ứng đòi hỏi insulin của
cơ thể, và người bệnh phải cần đến tiêm insulin.
Bệnh tiểu đường loại 2, một thời từng được coi là
căn bệnh của những người lớn tuổi, giờ càng ngày
càng trở nên phổ biến ở trẻ nhỏ.
Trên thực tế,
tiểu đường loại 2 không phải là căn bệnh về đường
huyết, mà là căn bệnh về kháng insulin - nghĩa là kênh
liên lạc giữa insulin và glucose không còn hoạt động.
Đây là một điểm quan trọng vì các loại thuốc điều
trị tiểu đường hoàn toàn không giải quyết vấn đề
này mà thay vào đó chỉ tập trung vào việc giảm đường
huyết, thông thường bằng cách kích thích dự trữ đường
dưới dạng mỡ trong cơ thể. Điều này không giải quyết
được vấn đề kênh liên lạc giữa insulin và glucose,
cũng như không giảm tỷ lệ tử vong. Thuốc tiểu đường,
mặc dù ban đầu có thể giảm nồng độ glucose, cuối
cùng chỉ khiến tình trạng bệnh nặng hơn.
Nghiên cứu Kiểm
soát Nguy cơ Bệnh Tim mạch ở Bệnh nhân Tiểu đường
(ACCORD) gần đây được xuất bản trong Tạp chí Y học
New England (The New England Journal of Medicine). Các nhà
nghiên cứu phụ trách theo dõi kết quả của việc sử
dụng insulin để giảm nồng độ glucose trong máu các bệnh
nhân tiểu đường ngạc nhiên khi thấy việc tăng cường
sử dụng insulin (để giảm nồng độ đường huyết) dẫn
đến sự gia tăng trong tỷ lệ tử vong do nhồi máu
cơ tim và đột quỵ. Trên thực tế, nghiên cứu này bị
dừng lại giữa chừng vì phát hiện này. Không may là
điều này vẫn thường xảy ra trong việc điều trị các
bệnh nhân tiểu đường - tập trung vào đường huyết
thay vì kháng insulin.
Trên nhiều khía
cạnh, sự béo phì có thể nhìn nhận như là cái giá
chúng ta trả khi cố gắng thoát khỏi bệnh tiểu đường.
Tuy nhiên, cuối cùng vấn đề vẫn là kênh liên lạc
không hoạt động và kháng insulin. Chìa khóa của vấn đề
là phục hồi sự nhạy cảm với insulin và liên lạc tế
bào.
Vậy, làm thế
nào để thực hiện điều đó, bạn hỏi?
Nếu bạn muốn
thay đổi cách làm việc của bất cứ tổ chức nào, đầu
tiên bạn phải nói chuyện với ông chủ...
nhiều cái thấy ngay ví dụ trong cuộc sống gia đình cháu. nhất là về vấn đề rượu bia, bố cháu nghiện rượu và nếu không có rượu là bị run tay, hạ đường, phải kiếm ngay thứ gì ngọt để ăn.
Trả lờiXóa:(