Nguồn: Primal Body, Primal Mind
Tác giả: Nora Gedgaudas- Lá thư sữa: Một thông điệp gửi đến các bệnh nhân của tôi
- Mì chính - Vị ngon giết người
- Giải độc Hay là Chết: Những Cách Trị liệu Tự nhiên để Đối phó với Bụi Phóng xạ từ Vụ Tan chảy Hạt nhân Fukushima
- Gluten: Cái bạn không biết có thể giết bạn
- Ảo vọng ăn chay (4 phần)
- Vài mẹo nhỏ cho những ai bắt đầu chế độ ăn ít carbohydrat (2 phần)
- Mối nguy hại của vắc-xin (2 bài)
- Chương 3: Tác hại của Gluten trong Ngũ cốc
- Chương 5: Tiêu hóa và Hấp thụ Dinh dưỡng
- Chương 13: Vai trò của Carbohydrat trong Cơ thể
- Chương 14: Leptin - Chúa tể của Vương quốc Hooc-môn
- Chương 15: Carbohydrat - Con đường dẫn đến bệnh tiểu đường loại 2
- Chương 18: Chất xơ có phải một carbohydrat không thể thiếu không?
- Chương 24: Nuôi dưỡng bộ não cho đúng
- Chương 25: Tầm quan trọng của chất béo với bộ não
Cơ thể nguyên thủy, tâm trí nguyên thủy
Chương 25: Tầm quan trọng của chất béo với bộ não
Bộ não là cơ quan tốn kém nhất về mặt năng lượng trong cơ thể. Nó chỉ chiếm 5% khối lượng cơ thể, nhưng dùng ít nhất 20% – 30% tổng năng lượng cung cấp cho cơ thể để thỏa mãn nhu cầu của nó. Nhiều người nghĩ rằng bộ não cần glucose để có lượng năng lượng này, nhưng rất ít người biết rằng thực ra bộ não thích ketone, một hợp chất chứa năng lượng tạo ra từ mỡ, làm nguồn năng lượng chính hơn!
Bộ não có thể dùng glucose, đặc
biệt là khi người đó ăn chế độ ăn gồm chủ yếu là
carbohydrat hoặc trong trường hợp khẩn cấp. Nhưng trong
điều kiện bình thường hàng ngày, glucose không cần
thiết cho bộ não như mọi người vẫn thường nghĩ. Khi
không có carbohydrat và một khi đã thích nghi về mặt
chuyển hóa chất, bộ não dễ dàng sử dụng ketone làm
nguồn năng lượng chính.
Bộ não dùng ketone trong trạng
thái ketosis. Sử dụng ketone trong não là phổ biến ở
trẻ sơ sinh nuôi bằng sữa mẹ giàu chất béo. Sự
chuyển đổi sang phụ thuộc vào carbohydrat chỉ xảy ra
khi carbohydrat được đưa vào chế độ ăn của trẻ.
Những enzyme chịu trách nhiệm chuyển hóa ketone,
d-beta-hydroxybutyrate dehydrogenase, acetoacetate-succinyl-CoA
transferase, và
acetoacetyl-CoA thiolase, có đủ trong não để chuyển hóa
ketone thành acyl-CoA và đưa nó vào chu trình tricarboxylic
acid ở tốc độ phù hợp để thỏa mãn nhu cầu năng
lượng của bộ não. Khả năng sử dụng ketone trong não
tỷ lệ thuận với trạng thái ketosis của cơ thể.
Cơ thể ưu tiên đốt đường
trước mỗi khi nồng độ đường huyết tăng quá mức,
chủ yếu để loại bỏ chất tai hại đó khỏi cơ thể
bằng mọi cách có thể. Glucose cũng còn được dùng làm
nguồn năng lượng chủ yếu cho bộ não khi nó đột nhiên
có nhu cầu năng lớn, ví dụ như trong tình trạng khẩn
cấp. Lượng carbohydrat dự trữ trong gan dưới dạng
glycogen luôn sẵn sàng cho trường hợp đó. Không một ai
cần ăn carbohydrat để có đủ glucose cho não hay cơ thể
dùng. Không bao giờ.
Trên thực tế, dùng hoàn toàn
glucose làm nguồn năng lượng chính cho bộ não và cơ thể
là trái tự nhiên và có hại. Không may đây là trạng
thái của tuyệt đại đa số mọi người. Các tế bào
não không chịu tác động nhiều bởi insulin và do đó bị
ảnh hưởng từ quá trình glycation và ôxy hóa của các
gốc tự do do glucose tạo ra hơn bất cứ mô nào khác
trong cơ thể. Không có cái gọi là mức độ an toàn của
glucose. Glucose và các loại đường khác như fructose luôn
luôn gây ra quá trình glycation và tạo ra các gốc tự
do. Không gì có thể thay đổi điều đó. Mặc dù chúng
ta cần glucose ở một mức độ nhất định để cung cấp
năng lượng cho các tế bào hồng huyết cầu, glucose là
nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến sự thoái hóa và cái
chết của chúng ta. Tuy vậy, chúng ta có thể kiểm soát
mức độ glycation và thoái hóa, thông qua việc lựa cho ăn
gì.
Glycation là nguyên nhân chính của
sự thoái hóa bộ não ở tuổi già và trong bệnh
Alzheimer, căn bệnh mất trí nhớ ở người già. (Bệnh
Alzheimer chẳng qua là trạng thái bộ não bị hủy hoại
quá mức. Để ý nhiều bệnh nhân của căn bệnh này hay
thèm đồ ngọt.) Những protein bị huỷ hoại bởi quá
trình glycation (gọi là beta-amyloid protein) dính với nhau
trong bộ não và đến một mức độ nào đó gây ra những
triệu chứng được gọi là bệnh Alzheimer. Những tổn
hại gây ra với bộ não khi một người ăn bất cứ loại
đường hay chế độ ăn nhiều tinh bột nào (kể cả cái
gọi là carbohydrat phức tạp) cũng giống như tổn hại
gây ra bởi nghiện rượu, chỉ có điều ở tốc độ
chậm và đều đặn hơn. Lưu ý rằng có bằng chứng cho
thấy sự liên quan chặt chẽ giữa bệnh Alzheimer và nhạy
cảm với gluten nữa.
Thay vào đó, khi bộ não và cơ
thể chuyển sang đốt ketone làm nguồn năng lượng chính,
bộ não tránh được hầu hết những tổn hại này, và
nhận được một nguồn năng lượng đều đặn, bền
vững và phong phú hơn nhiều để thỏa mãn nhu cầu năng
lượng của nó. Cơ thể khi đó sẽ không còn bị ảnh
hưởng bởi những cơn hạ đường huyết mà những triệu
chứng thể chất, tâm lý và thần kinh đi kèm với trạng
thái đó. Đường huyết sẽ không còn ảnh hưởng lên
tinh thần và nhận thức nữa. Một số chất dinh dưỡng
bổ sung có thể giúp bảo vệ cơ thể hơn nữa khỏi
những tác động của quá trình glycation.
Vậy, mỡ quan trọng đối với
bộ não đến mức nào?
Không thể kể xiết được.
Bộ não được cấu thành bởi
hơn 50% mỡ – đến 70 – 80% nếu không kể nước. Trên
thực tế, nơi tập trung axít béo omega-3 nhiều nhất trong
cơ thể là ở bộ não. Có đến một phần tư lượng
axít béo trong bộ não con người là DHA, một thành phần
omega-3 axít thường có trong dầu cá nước lạnh và thịt
động vật ăn cây lá tự nhiên hay thú rừng. Con người
là đặc biệt duy nhất trong các loài linh trưởng ở khía
cạnh này. Bộ não của vượn hay các loài linh trưởng
khác có chủ yếu là axít béo omega-6. Ngược lại, axít
béo omega-3 là tối cần thiết, không thể thiếu cho hoạt
động và sức khỏe của hệ thống miễn dịch, cơ xương
khớp, tiêu hóa và thần kinh của con người. Axit béo
omega-3 là không thể thiếu được cho việc truyền tín
hiệu giữa các tế bào và các quá trình chống sưng tấy.
Việc ăn carbohydrat và nồng độ insulin cao trong máu làm
rối loạn sự chuyển hóa omega-3 và khiến cơ thể mất
magiê, một loại khoáng chất tối cần thiết cho sự
chuyển hóa EPA thành DHA, phân tử omega-3 dùng cho não và
không thể thiếu cho các hoạt động của bộ não. Điều
đáng chú ý là 50% lượng chất béo trong bộ não con người
là ở dưới dạng bão hòa. Nó cực kỳ cần thiết để
bảo vệ và ổn định hóa những phân tử axit béo không
bão hòa đa omega-3 mỏng manh. Bộ não cũng dùng axit
arachidonic (thứ vẫn bị gièm pha) vào nhiều việc quan
trọng. Một tổ hợp nhiều loại chất béo tự nhiên luôn
hoạt động cùng nhau để bổ sung và tối ưu hóa hoạt
động của cơ thể và bộ não.
Có đến 10% khối lượng bộ não
con người đã bị mất đi chỉ trong thế kỷ vừa qua,
nhiều khả năng là do sự suy giảm tỷ lệ EPA và DHA
trong chế độ ăn và việc ăn nhiều thực phẩm chế biến
sẵn.
Cholesterol nữa cũng cực kỳ quan
trong cho hoạt động bình thường của bộ não. Ít người
biết rằng kho dự trữ lớn nhất của chất cholesterol
xâấâu xa nằm trong bộ não. Bộ não chỉ chiếm 2%
khối lượng cơ thể, nhưng nó chứa 25% tổng lượng
cholesterol của cơ thể! Trên thực tế, cholesterol tăng
cường khả năng truyền tin và hoạt động của các khớp
thần kinh giữa các tế bào não và bảo vệ các tín hiệu
này khỏi bị rò ra ngoài các dây thần kinh. Với chức
năng chống ôxy hóa của nó, cholesterol giúp bảo vệ các
tế bào não khỏi tổn hại do ôxy hóa và bảo vệ cấu
trúc của các phân tử axit béo không bão hòa đa mỏng
manh cấu thành tế bào não. Ăn và hấp thụ đủ
cholesterol là cực kỳ quan trong cho hoạt động nhận thức
và trí nhớ. Trên thực tế, một số tác dụng phụ thông
thường của thuốc statin (thuốc giảm cholesterol) là suy
giảm khả năng nhận thức và trí nhớ!
Sự mất mát của magiê thông qua
các đợt dâng trào đường huyết, và sự thiết hụt
magiê trong chế độ ăn (hoặc không sản xuất đủ axit
hydrochloric để hấp thụ nó) tạo điều kiện cho những
chất có cấu trúc tương tự nhưng độc hại như nhôm,
liên kết với các thụ cảm bỏ trống trong não. Nhớ là
nồng độ cao của nhôm trong não đã được chứng tỏ có
liên quan đến bệnh Alzheimer. Thêm vào đó, magiê điều
khiển hơn 300 enzyme trong cơ thể và bộ não. Nó là tối
cần thiết cho hoạt động thần kinh phó giao cảm (mang
lại cảm giác thư giãn, bình thản), và nó thường bị
thiếu hụt ở những người ăn chế độ ăn giàu
carbohydrat.
Tuy nhiên, omega-3 mới là chất bị
thiếu hụt trầm trọng nhất trong chế độ ăn hiện đại
– đặc biệt là chế độ ăn phương Tây. Ngày nay, uống
bổ sung dầu cá là cách rẻ tiền và hữu hiệu nhất để
bổ sung EPA và DHA, hai hợp chất quan trọng nhất tạo ra
từ omega-3. Dầu krill là một nguồn EPA và DHA khác, có
thể còn hiệu quả hơn, tuy nhiên nó rất đắt. Dầu
krill chứa nhiều loại phospholipid và chất chống ôxy hóa
không có trong dầu cá, có thể giúp cơ thể hấp thụ nó
tốt hơn. Đó là một lựa chọn tốt cho những người có
đủ tiền mua. Tổ tiên chúng ta nhận EPA và DHA bằng việc
ăn chủ yếu thịt thú rừng ăn cây cỏ tự nhiên và cá
nước lạnh.
Nấu ăn quá kỹ dễ dàng phá huỷ
những loại dầu này do chúng là axit béo không bão hòa
đa. Sự thiếu hụt axit béo omega-3 thường là đặc biệt
nghiêm trọng ở những người bị trầm cảm, kháng
insulin, béo phì, rối loạn lưỡng cực, bệnh tim mạch và
uống bổ sung dầu cá có thể mang lại kết quả rất tốt
cho họ. Dầu cá tốt hơn rất nhiều so với dầu lanh
(flax oil), do nhiều cá nhân với các rối loạn tinh
thần, thần kinh và nhận thức thường thiếu enzyme
delta-6 desaturase cần thiết để tạo ra EPA và DHA từ ALA,
loại omega-3 ở thực vật. Ngay cả trong điều kiện thuận
lợi, chỉ khoảng 3% - 5% lượng ALA hấp thụ (từ dầu
lanh, hạt quả óc chó, và các nguồn tương tự) được
chuyển hóa thành EPA. Chỉ một phần EPA được chuyển
tiếp thành DHA, thứ mà bộ não thực sự cần.
Người ta cũng biết rằng chất
béo hydro hóa (trans fat) trong cơ thể, hoặc sự thiếu hụt
magiê hay quá nhiều axit béo omega-6 (có trong dầu ngô,
hướng dương, v.v...), can thiệp vào quá trình chuyển hóa
prostaglandin, do chúng liên kết với enzyme delta-6-desaturase.
Các loại dầu thực vật như dầu
đậu tương, canola, dầu hướng dương, dầu ngô, gần như
bao giờ cũng bị hydro hóa một phần. Chúng chứa hàm
lượng axit béo omega-6 gây sưng tấy cực kỳ cao và có
thể can thiệp vào sự hấp thụ và sử dụng axit béo
omega-3 trong cơ thể. Những loại dầu thực vật này có
thể làm trầm trọng thêm tình trạng kháng insulin, dẫn
đến béo phì, xơ vững động mạch, cùng các bệnh khác.
Khi bị xử lý quá nhiều (hầu hết dầu thực vật trên
thị trường đều như vậy), chúng có thể gây ra đột
biến gen, dẫn đến nhiều loại ung thư. Ngoại trừ dầu
olive, bạn nên tránh hoàn toàn hầu hết các loại dầu
thực vật khác. Dầu olive có thể được cho thẳng vào
salad, rau hấp, và thêm vào một số món ăn. Tuy nhiên, tôi
khuyên bạn không nên dùng nó quá nhiều hay nấu ăn với
nó vì nó dễ dàng bị ôxy hóa ở nhiệt độ cao.
Dầu hydro hóa và hydro hóa một
phần nên được loại trừ hoàn toàn và vĩnh viễn. Đừng
bị đánh lừa bởi những quảng cáo ít trans fat hay không
có trans fat trên các nhãn mác thực phẩm chế biến sẵn,
trong khi chúng liệt kê dầu đậu tương, canola hay bất cứ
loại dầu thực vật thường bị hydro hóa nào khác. Luật
pháp hiện nay cho phép mỗi khẩu phần ăn chứa một lượng
trans fat nhất định mà không cần phải liệt kê trên
nhãn mác. Ngành công nghiệp thực phẩm lợi dụng khe hở
này ở bất cứ chỗ nào họ có thể. Bạn càng tránh
thực phẩm chế biến sẵn được bao nhiêu thì càng tốt
bấy nhiêu.
Lượng dầu hydro hóa (trans
fat) an toàn duy nhất là số không.
Mỡ bão hòa tự nhiên và
cholesterol không cạnh tranh với axit béo omega-3. Trên thực
tế, chúng còn hỗ trợ lẫn nhau. Thêm vào đó, mỡ bão
hòa và cholesterol, mặc dù bị bôi nhọ ở mọi chỗ, bảo
vệ màng tế bào chống lại sự ôxy hóa và bản thân
chúng cấu thành ít nhất 50% thành phần màng tế bào. Một
nửa bộ não con người được cấu thành từ mỡ bão
hòa. Mỡ bão hòa tự nhiên giúp cơ thể hấp thụ nhiều
chất dinh dưỡng cực kỳ quan trọng; đóng vai trò quan
trọng trong sức khỏe của bộ xương; tăng cường hệ
thống miễn dịch; cần thiết cho sự hấp thụ và sử
dụng của các loại axit béo tối cần thiết; làm giảm
nồng độ lipoprotein, một dấu hiệu của bệnh tim; bảo
vệ gan chống lại tác dụng của cồn; được sử dụng
để tạo ra năng lượng, các loại hooc-môn và dùng trong
quá trình chuyển hóa chất của tế bào. Các loại axit
béo bão hòa chuỗi ngắn (dài 3 đến 14 nguyên tử carbon)
có tác dụng diệt khuẩn và diệt virus nữa.
Các tuyến
nội tiết của chúng ta nắm quyền điều khiển trong cơ
thể lớn hơn nhiều so với khối lượng của chúng. Tuy
vậy, các tuyến nội tiết đó còn có ông chủ của
chúng, có lẽ là thứ kỳ diệu nhất trong tất cả những
điều kỳ diệu của sự sống – bộ não con người.
Tiến sĩ Bernard
Jensen
Vậy tóm lại là nên sử dụng sản phẩm nào hả add
Trả lờiXóaNếu bạn hỏi về chất béo nào nên dùng thì chất béo động vật (mỡ) là tốt nhất để nấu ăn. Trong số dầu thực vật chỉ có dầu olive ép lạnh là có thể dùng để trộn salad, nhưng cũng không nên dùng để nấu. Tất cả các loại dầu thực vật thông dụng khác đều không nên dùng.
XóaNếu bạn ở nước ngoài thì có thể dùng bơ hoặc dầu dừa để nấu ăn cũng được. Nhưng nó không phổ biến và rẻ như mỡ động vật.